GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG CHÚA NHẬT
LỄ CHÚA PHỤC SINH
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ
luật các Bí tích)
WHĐ (08.4.2023) - Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.
LỜI CHÚA
Bài Ðọc I: Cv 10, 34a. 37-43
"Chúng tôi đã ăn uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại".
Bài trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, Phêrô lên tiếng
nói rằng: "Như anh em biết điều đã xảy ra trong toàn cõi Giuđêa, khởi đầu
từ Galilêa, sau khi Gioan rao giảng phép rửa: ấy là Chúa Giêsu thành Nadarét.
Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu cho Người. Người đi khắp
nơi, ban bố ơn lành và chữa mọi người bị quỷ ám, bởi vì Thiên Chúa ở cùng Người.
Và chúng tôi, chúng tôi là chứng nhân tất cả những gì Người đã làm trong nước
Do-thái, và tại Giêrusalem, Người là Ðấng người ta đã giết treo Người trên thập
giá. Nhưng ngày thứ ba, Thiên Chúa đã cho Người sống lại và hiện ra không phải
với toàn dân, mà là với chúng tôi là nhân chứng Thiên Chúa đã tuyển chọn trước,
chính chúng tôi đã ăn uống với Người sau khi Người từ cõi chết sống lại. Và Người
đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho toàn dân và làm chứng rằng chính Người đã
được Thiên Chúa tôn làm quan án xét xử kẻ sống và kẻ chết. Mọi tiên tri đều làm
chứng về Người rằng: Tất cả những ai tin vào Người, thì nhờ danh Người mà được
tha tội".
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 1-2. 16ab-17. 22-23
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra,
chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: 1) Hãy cảm tạ Chúa, vì
Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở. Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên:
"Ðức từ bi của Người muôn thuở".
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra,
chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc đọc: Alleluia.
2) Tay hữu Chúa đã hành động mãnh
liệt, tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và
tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa.
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra,
chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc đọc: Alleluia.
3) Phiến đá mà những người thợ
xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó
kỳ diệu trước mắt chúng ta.
Ðáp: Ðây là ngày Chúa đã lập ra,
chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Hoặc đọc: Alleluia.
Bài Ðọc II: Cl 3, 1-4
"Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Bài trích thư Thánh Phaolô Tông đồ
gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống
lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu
Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự
dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong
Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện
với Người trong vinh quang.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc: 1 Cr 5, 6b-8
"Anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự".
Bài trích thư thứ nhất của Thánh
Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, anh em không biết
sao?: chỉ một tí men là đã đủ làm dậy men cả khối bột! Anh em hãy tẩy trừ men
cũ để nên bột mới anh em là bánh không men. Vì Chiên Vượt Qua của ta, là Ðức
Kitô, đã chịu sát tế. Cho nên ta hãy mừng lễ, đừng với men cũ, và men gian tà,
ác độc, nhưng là với Bánh không men của lòng tinh tuyền và chân thật.
Ðó là lời Chúa.
Ca Tiếp Liên
(Ðọc trong Chúa Nhật Phục Sinh, còn các ngày
khác trong tuần Bát nhật thì không buộc đọc)
Các Kitô hữu hãy tiến dâng
lời khen ngợi hy lễ Vượt Qua.
Chiên con đã cứu chuộc đoàn chiên
mẹ:
Ðức Kitô vô tội đã hoà giải tội
nhân với Chúa Cha.
Sống và chết hai bên song đấu
cách diệu kỳ,
tướng lãnh sự sống đã chết đi,
nhưng vẫn sống mà cai trị.
Hỡi Maria, hãy nói cho chúng tôi
nghe
bà đã thấy gì trên quãng đường
đi?
Tôi đã thấy mồ Ðức Kitô đang sống
và vinh quang của Ðấng Phục Sinh,
thấy các thiên thần làm chứng,
thấy khăn liệm và y phục.
Ðức Kitô là hy vọng của tôi đã phục
sinh,
Người đi trước chư vị tới xứ
Galilêa.
Chúng tôi biết Ðức Kitô đã sống lại
thật từ cõi chết!
Lạy Chúa, Vua chiến thắng, xin
thương xót chúng con.
Alleluia: 1 Cr 5, 7b-8a
Alleluia, alleluia! - Lễ Vượt Qua
của chúng ta là Ðức Kitô đã hiến tế vậy chúng ta hãy mừng lễ trong Chúa. -
Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 1-9
"Người phải sống lại từ cõi chết".
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo
Thánh Gioan.
Ngày
đầu tuần, Maria Mađalêna đi ra mồ từ sáng sớm khi trời còn tối và bà thấy tảng
đá đã được lăn ra khỏi mồ, bà liền chạy về tìm Simon-Phêrô và người môn đệ kia
được Chúa Giêsu yêu mến, bà nói với các ông rằng: "Người ta đã lấy xác Thầy
khỏi mồ, và chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu". Phêrô và môn
đệ kia ra đi đến mồ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn Phêrô,
và đến mồ trước. Ông cúi mình xuống thấy những khăn liệm để đó, nhưng ông không
vào trong. Vậy Simon-Phêrô theo sau cũng tới nơi, ông vào trong mồ và thấy những
dây băng nhỏ để đó, và khăn liệm che đầu Người trước đây, khăn này không để lẫn
với dây băng, nhưng cuộn lại để riêng một chỗ. Bấy giờ môn đệ kia mới vào, dù
ông đã tới mồ trước. Ông thấy và ông tin, vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng,
theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.
Ðó là lời Chúa.
GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Số 638-655, 989, 1001-1002: Sự Phục Sinh của Đức Kitô và sự phục sinh của
chúng ta
638. “Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều Thiên
Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con cháu
các ông, khi làm cho Chúa Giêsu sống lại” (Cv l3,32-33). Sự Sống Lại của
Chúa Giêsu là chân lý cao cả nhất của đức tin chúng ta vào Đức Kitô, với tính
cách là một chân lý trung tâm đã được tin và thể hiện trong cuộc sống bởi cộng
đoàn Kitô giáo tiên khởi, đã được lưu truyền bởi Thánh Truyền như chân lý nền tảng,
đã được xác lập bởi các văn kiện của Tân Ước, và được rao giảng, đồng thời cùng
với thập giá, như là phần thiết yếu của mầu nhiệm Vượt Qua:
Biến cố lịch sử và siêu việt
639. Mầu nhiệm của sự Sống lại của Đức Kitô là một biến cố có thật,
với những cuộc tỏ hiện đã được kiểm chứng theo lịch sử, như Tân Ước làm chứng.
Khoảng năm 56, thánh Phaolô đã có thể viết cho tín hữu Côrintô: “Trước hết, tôi
đã truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Kitô đã chết
vì tội lỗi chúng ta đúng như lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và
ngày thứ ba đã sống lại, đúng như lời Kinh Thánh. Ngươi đã hiện ra với ông
Kêpha, rồi với nhóm Mười Hai” (1 Cr l5,3-4). Ở đây vị Tông Đồ nói đến truyền thống sống động về sự Sống lại mà
ngài đã học được sau cuộc hối cải của ngài ở cổng thành Đamas[2].
Ngôi mộ trống
640. “Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn
đây nữa, nhưng đã sống lại rồi” (Lc 24,5-6). Trong các biến cố Vượt Qua, yếu tố
đầu tiên mà ta gặp là ngôi mộ trống. Tự nó, điều này không phải là một bằng chứng
trực tiếp. Việc thân thể Đức Kitô không còn trong mộ có thể được giải thích
cách khác[3]. Dầu vậy, ngôi mộ trống vẫn
là một dấu chỉ căn bản đối với mọi người. Việc phát hiện ngôi mộ trống là bước
đầu dẫn các môn đệ đến việc nhìn nhận chính sự kiện Sống lại. Trước hết đó là
trường hợp của các phụ nữ thánh thiện[4],
rồi đến ông Phêrô[5]. Người môn đệ “Chúa Giêsu
thương mến” (Ga 20,2), khi vào trong mộ và thấy “những băng vải để ở đó” (Ga
20,6), khẳng định rằng ông đã thấy và đã tin[6].
Điều này giả thiết rằng khi thấy ngôi mộ trống[7]
ông đã nhận ra rằng việc thân thể Chúa Giêsu không còn đó không phải là một việc
do người phàm và Chúa Giêsu đã không đơn thuần trở lại cuộc sống trần thế như
trường hợp anh Lazarô[8].
Những lần hiện ra của Đấng Phục
Sinh
641. Bà Maria Magđalêna và các phụ nữ thánh thiện, những người đã đến
để hoàn thành việc xức dầu cho thân thể của Chúa Giêsu[9],
vốn được mai táng cách vội vã vào chiều ngày Thứ Sáu vì đã đến ngày sabat[10], là những người đầu tiên được
gặp Đấng Phục Sinh[11]. Như vậy, các phụ nữ là những
sứ giả đầu tiên loan báo sự sống lại của Đức Kitô cho chính các Tông Đồ[12]. Sau đó Chúa Giêsu hiện ra
với các ông, trước hết là với ông Phêrô, sau đó với nhóm Mười Hai[13]. Vì vậy ông Phêrô, người đã
được kêu gọi để củng cố đức tin của các anh em mình[14],
đã thấy Đấng Phục Sinh trước các anh em và dựa trên chứng từ của ông mà cộng
đoàn kêu lên: “Chúa đã sống lại thật rồi, và đã hiện ra với ông Simon”
(Lc 24,34).
642. Tất cả những gì đã xảy ra trong những ngày lễ Vượt Qua đó, đòi
buộc mỗi vị Tông Đồ, đặc biệt là ông Phêrô, xây dựng một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên đã bắt đầu từ sáng ngày Vượt Qua. Với tư cách là những chứng nhân của Đấng
Phục Sinh, các ngài mãi là những tảng đá nền móng của Hội Thánh Người. Đức tin
của cộng đoàn các tín hữu tiên khởi được xây dựng trên lời chứng của những con
người cụ thể mà các Kitô hữu quen biết và phần đông lúc đó còn sống giữa họ.
“Những chứng nhân về cuộc Phục Sinh của Đức Kitô”[15]
trước hết là ông Phêrô và Nhóm Mười Hai, nhưng không chỉ có các vị ấy: ông
Phaolô nói đến hơn năm trăm người đã được Chúa Giêsu hiện ra một lượt, rồi với
ông Giacôbê và với tất cả các Tông Đồ[16].
643. Trước những lời chứng đó, không thể giải thích rằng sự phục
sinh của Đức Kitô nằm bên ngoài trật tự thể lý, và không thể không công nhận sự
phục sinh đó có tính cách là một sự kiện lịch sử. Qua các sự kiện, người ta thấy
rõ là đức tin của các môn đệ đã bị lung lay tận gốc do cuộc khổ nạn và cái Chết
trên thập giá của Thầy họ, mà chính Người đã báo trước[17].
Sự chấn động tâm hồn do cuộc khổ nạn gây nên là mạnh mẽ đến nỗi các môn đệ (hoặc
ít nhất một số người trong họ) không tin ngay lời loan báo về việc Sống Lại.
Các sách Tin Mừng không hề trình bày cho chúng ta thấy một cộng đoàn đầy hứng
khởi thần bí; nhưng cho chúng ta thấy những môn đệ mất tinh thần (“buồn rầu”:
Lc 24,17) và hoảng sợ[18]. Vì vậy họ đã không tin các
phụ nữ thánh thiện từ ngôi mộ trở về, và những lời của các bà, họ “cho là chuyện
vớ vẩn” (Lc 24,11)[19]. Khi Chúa Giêsu hiện ra với
Nhóm Mười Một chiều ngày Vượt Qua, “Người khiển trách các ông không tin và cứng
lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người, sau khi Người
sống lại” (Mc 16,14).
644. Các môn đệ, cả khi đứng trước thực tại Chúa Giêsu phục sinh, vẫn
còn nghi ngờ[20]; đối với các ông, coi như
không thể nào có việc ấy: họ tưởng là thấy ma[21],
“các ông còn chưa tin vì mừng quá, và còn đang ngỡ ngàng” (Lc 24,41). Ông Tôma
cũng đã nghi ngờ như vậy[22], và trong dịp hiện ra lần
cuối cùng mà sách Matthêu thuật lại, “có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Vì
vậy, giả thuyết cho rằng sự Phục Sinh là “sản phẩm” của lòng tin (hay sự dễ
tin) của các Tông Đồ, không có cơ sở. Hoàn toàn trái lại, đức tin của các ông
vào sự Phục Sinh phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp về thực tại Chúa Giêsu sống
lại, dưới tác động của ân sủng của Thiên Chúa.
Trạng thái nhân tính đã phục sinh
của Đức Kitô
645. Chúa Giêsu phục sinh liên hệ trực tiếp với các môn đệ của Người
qua đụng chạm[23] và qua việc chia sẻ thực phẩm[24]. Như vậy, Người mời gọi họ
nhìn nhận Người không phải là ma[25], nhưng nhất là để các ông thấy
rõ rằng thân thể phục sinh của Người đang hiện diện với các ông, chính là thân
thể đã bị hành hạ và bị đóng đinh vào thập giá, bởi vì thân thể đó vẫn còn mang
các dấu vết của cuộc khổ nạn của Người[26].
Tuy nhiên, thân thể đích thực và hiện thực này đồng thời có những đặc tính mới
của một thân thể vinh hiển: thân thể đó không còn bị ràng buộc trong không gian
và thời gian nữa, nhưng có thể tự do hiện diện ở đâu và lúc nào Người muốn[27], bởi vì nhân tính của Người
không còn có thể bị ràng buộc ở trần thế nữa và chỉ thuộc về quyền năng thần
linh của Chúa Cha[28]. Cũng vì vậy, Chúa Giêsu phục
sinh hoàn toàn tự do để hiện ra như Người muốn: dưới hình dạng một người làm vườn[29] hoặc “dưới một hình dạng
khác” (Mc 16,12), không giống hình dạng các môn đệ đã quen, chính là để khơi dậy
đức tin của các ông[30].
646. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không phải là việc trở lại với cuộc
sống trần thế, giống như trường hợp của những kẻ Người đã cho sống lại trước cuộc
Vượt Qua: con gái ông Giairô, người thanh niên Naim, anh Lazarô. Các sự kiện
này là những biến cố kỳ diệu, nhưng những người được hưởng phép lạ đó, nhờ quyền
năng của Chúa Giêsu, chỉ trở lại với cuộc sống trần thế “thông thường”. Một lúc
nào đó họ sẽ lại chết. Sự phục sinh của Đức Kitô thì hoàn toàn khác hẳn. Trong
thân thể phục sinh của Người, Người chuyển từ trạng thái phải chết sang một sự
sống khác vượt trên thời gian và không gian. Thân thể của Chúa Giêsu trong sự
Phục Sinh đầy tràn quyền năng của Chúa Thánh Thần; thân thể này tham dự vào sự
sống thần linh trong trạng thái vinh quang của Người, đến độ thánh Phaolô đã có
thể nói Đức Kitô là một người thiên giới[31].
Sự Phục Sinh xét như một biến cố
siêu việt
647. Thánh thi Exultet
trong đêm Canh thức Vượt Qua hát: “Ôi! Đêm thật diễm phúc, đêm duy nhất biết được
thời giờ Đức Kitô từ cõi chết phục sinh”[32].
Thật vậy, không ai chứng kiến tận mắt chính biến cố Phục Sinh và không một tác
giả sách Tin Mừng nào mô tả biến cố đó. Không ai có thể nói sự Phục Sinh đã xảy
ra về mặt thể lý như thế nào. Bản chất thâm sâu nhất của biến cố đó, tức là sự
chuyển qua một cuộc sống khác, lại càng khó nhận biết bằng giác quan. Sự Phục
Sinh, một biến cố lịch sử có thể được xác nhận bằng dấu chỉ là ngôi mộ trống và
bằng thực tại là những lần gặp gỡ của các Tông Đồ với Đức Kitô phục sinh, vẫn
mãi nằm trong trung tâm của mầu nhiệm đức tin, vì biến cố đó siêu việt và vượt
hẳn trên lịch sử. Chính vì vậy, Đức Kitô phục sinh không tỏ mình ra cho thế
gian[33], nhưng cho các môn đệ của
Người, “những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm
chứng cho Người trước mặt dân” (Cv 13,31).
Sự phục sinh, công trình của Ba
Ngôi Chí Thánh
648. Sự Phục Sinh của Đức Kitô là đối tượng của đức tin, vì đó là sự
can thiệp siêu việt của chính Thiên Chúa trong công trình tạo dựng và trong lịch
sử. Trong biến cố này, Ba Ngôi Thiên Chúa vừa cùng hoạt động chung, vừa biểu lộ
tính cách riêng biệt của mỗi Ngôi. Sự Phục Sinh được thực hiện do quyền năng của
Chúa Cha, Đấng “đã làm sống lại” (Cv 2,24) Đức Kitô, Con của Ngài, và bằng cách
đó, Chúa Cha đưa nhân tính của Người, cùng với thân thể của Người, vào Ba Ngôi
một cách hoàn hảo. Chúa Giêsu được mạc khải một cách vĩnh viễn là “Đấng đã từ
cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa với tất
cả quyền năng” (Rm 1,4). Thánh Phaolô nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa biểu lộ quyền
năng[34] qua hoạt động của Chúa
Thánh Thần, Đấng làm cho nhân tính đã chết của Chúa Giêsu được sống lại và kêu
gọi nhân tính đó vào trạng thái vinh hiển của Chúa.
649. Ve phần Chúa Con, Người thực hiện việc Phục Sinh của chính
mình bằng sức mạnh của quyền năng thần linh của mình. Chúa Giêsu loan báo rằng
Con Người sẽ phải chịu đau khổ, chịu chết rồi sống lại (động từ với nghĩa chủ động[35]). Nơi khác, Người xác quyết
cách minh nhiên: “Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại…. Tôi có quyền hy
sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy” (Ga 10,17-18). “Chúng ta tin rằng Chúa
Giêsu đã chết và đã sống lại” (1 Tx 4,14).
650. Các Giáo phụ chiêm ngắm sự Phục Sinh, khởi từ Ngôi Vị thần
linh của Đức Kitô, Ngôi Vị này vẫn kết hợp với linh hồn Người và thân thể Người,
khi hai phần đã bị tách biệt bởi cái chết: “Nhờ sự duy nhất của bản tính Thiên
Chúa hiện diện ở cả hai phần của con người, nên hai phần bị chia lìa và tách biệt,
lại được tái hợp và liên kết với nhau. Như vậy sự chết là do sự tách rời những
phần vốn kết hợp, còn sự Phục Sinh là do sự kết hợp các phần bị tách rời”[36].
Ý nghĩa và ảnh hưởng cứu độ của sự phục sinh
651. “Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi
trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng” (1 Cr 15,14). Trước hết,
sự Phục Sinh tạo nên việc xác nhận tất cả những gì chính Đức Kitô đã làm và đã
giảng dạy. Tất cả các chân lý, kể cả những chân lý mà tâm trí nhân loại không
thể đạt tới, đều được biện minh, một khi Đức Kitô phục sinh đưa ra lý chứng tối
hậu, mà Người đã hứa, về thẩm quyền thần linh của Người.
652. Sự phục sinh của Đức Kitô là việc hoàn thành những lời hứa của Cựu Ước[37]
và của chính Chúa Giêsu trong cuộc đời trần thế của Người[38].
Kiểu nói “đúng như lời Thánh Kinh”[39]
nêu rõ rằng sự phục sinh của Đức Kitô đã hoàn thành các lời tiên báo này.
653. Chân lý về thần tính của
Chúa Giêsu được xác nhận bằng sự phục sinh của Người. Người đã nói: “Khi
các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga
8,28). Sự phục sinh của Đấng bị đóng đinh chứng minh rằng Người thật sự là “Đấng
Hằng Hữu”, là Con Thiên Chúa và là chính Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã có thể
tuyên bố với người Do thái: “Chúng tôi xin loan báo cho anh em Tin Mừng này: điều
Thiên Chúa hứa với cha ông chúng ta, thì Ngài đã thực hiện cho chúng ta là con
cháu các ngài, khi làm cho Chúa Giêsu sống lại, đúng như lời đã chép trong
thánh vịnh thứ hai: Con là Con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra Con” (Cv
13,32-33)[40]. Sự Phục Sinh của Đức Kitô
được liên kết chặt chẽ với mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa. Sự phục sinh
là việc hoàn thành mầu nhiệm này theo kế hoạch vĩnh cửu của Thiên Chúa.
654. Trong mầu nhiệm Vượt Qua có hai khía cạnh: Đức Kitô, nhờ sự Chết
của Người, giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, nhờ sự Phục Sinh của Người, mở đường
cho chúng ta tiến vào cuộc sống mới. Trước hết, đây là sự công chính hoá, phục hồi chúng ta trong ân sủng của Thiên Chúa[41], để “cũng như Đức Kitô đã
được sống lại từ cõi chết…, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới” (Rm
6,4). Đời sống mới này cốt tại việc chiến thắng cái chết của tội lỗi, và việc
tham dự mới vào ân sủng[42]. Đời sống mới hoàn thành ơn
được làm nghĩa tử, bởi vì người ta trở
thành anh em của Đức Kitô, như chính Chúa Giêsu gọi các môn đệ Người sau cuộc
phục sinh của Người: “Về báo cho anh em của Thầy” (Mt 28,10)[43]. Anh em đây không phải do bản
tính, nhưng do hồng ân của ân sủng, bởi vì ơn được làm nghĩa tử cho chúng ta thật
sự thông phần vào sự sống của Người Con Một, sự sống đó đã được mạc khải trọn vẹn
trong sự Phục Sinh của Người.
655. Cuối cùng, sự phục sinh của Đức Kitô – và chính Đức Kitô phục
sinh – là nguyên lý và nguồn mạch cho chúng ta ngày sau được sống lại: “Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, mở đường
cho những ai đã an giấc ngàn thu.... Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải
chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống”
(1 Cr 15,20-22). Trong khi mong đợi việc hoàn thành này, Đức Kitô phục sinh sống
trong trái tim các tín hữu của Người. Nơi Người, các Kitô hữu được nếm “những sức
mạnh của thế giới tương lai” (Dt 6,5) và đời sống của họ được Đức Kitô lôi
cuốn vào trong lòng đời sống thần linh[44],
“để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã
chết và sống lại vì mình” (2 Cr 5,15).
989. Chúng ta tin một cách chắc chắn và hy vọng một cách chính xác
rằng: cũng như Đức Kitô đã thật sự sống lại từ cõi chết và sống muôn đời, thì
cũng vậy, những người công chính sau cái chết của mình sẽ sống muôn đời với Đức
Kitô phục sinh, Đấng sẽ làm cho họ sống lại vào ngày sau hết[45]. Sự sống lại của chúng ta,
cũng như sự sống lại của Người, sẽ là công trình của Ba Ngôi Chí Thánh:
“Nếu Thần Khí
ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết,
thì Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của
Ngài đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới”
(Rm 8,11)[46].
1001. Khi nào phục sinh? Một
cách vĩnh viễn, “trong ngày sau hết” (Ga 6,39-40.44.54; 11,24); “ngày tận thế”[47]. Quả vậy, sự phục sinh của
những người chết được gắn liền với cuộc Quang lâm của Đức Kitô:
“Vì khi hiệu lệnh
ban ra, khi tiếng Tổng lãnh Thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên,
thì chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người chết trong Đức Kitô sẽ sống
lại trước tiên” (l Tx 4,16).
Phục sinh với Đức Kitô
1002. Nếu thật sự là, Đức Kitô sẽ cho chúng ta phục sinh trong
“ngày sau hết”, thì cũng thật sự là, một cách nào đó, chúng ta đã phục sinh với
Đức Kitô rồi. Thật vậy, nhờ Chúa Thánh Thần, đời sống Kitô hữu, ngay nơi trần
thế, đã là sự tham dự vào cái Chết và sự Sống lại của Đức Kitô:
“Anh em đã
cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu Phép Rửa, lại cùng được sống lại với
Người, vì tin vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Người sống lại từ
cõi chết…. Anh em đã được sống lại cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì
thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 2,12; 3,1).
Số 647, 1167-1170, 1243, 1287: Lễ Phục Sinh, Ngày của Chúa
647. Thánh thi Exultet
trong đêm Canh thức Vượt Qua hát: “Ôi! Đêm thật diễm phúc, đêm duy nhất biết được
thời giờ Đức Kitô từ cõi chết phục sinh”[48].
Thật vậy, không ai chứng kiến tận mắt chính biến cố Phục Sinh và không một tác
giả sách Tin Mừng nào mô tả biến cố đó. Không ai có thể nói sự Phục Sinh đã xảy
ra về mặt thể lý như thế nào. Bản chất thâm sâu nhất của biến cố đó, tức là sự
chuyển qua một cuộc sống khác, lại càng khó nhận biết bằng giác quan. Sự Phục
Sinh, một biến cố lịch sử có thể được xác nhận bằng dấu chỉ là ngôi mộ trống và
bằng thực tại là những lần gặp gỡ của các Tông Đồ với Đức Kitô phục sinh, vẫn
mãi nằm trong trung tâm của mầu nhiệm đức tin, vì biến cố đó siêu việt và vượt
hẳn trên lịch sử. Chính vì vậy, Đức Kitô phục sinh không tỏ mình ra cho thế
gian[49], nhưng cho các môn đệ của
Người, “những kẻ từng theo Người từ Galilê lên Giêrusalem. Giờ đây chính họ làm
chứng cho Người trước mặt dân” (Cv 13,31).
1167. Ngày Chúa Nhật đặc biệt là ngày họp mặt để cử hành phụng vụ,
trong đó, các tín hữu quy tụ lại “để, khi nghe Lời Chúa và tham dự bí tích
Thánh Thể, họ kính nhớ cuộc khổ nạn, sự sống lại và vinh quang của Chúa Giêsu,
đồng thời họ cảm tạ Thiên Chúa, Đấng đã tái sinh họ trong niềm hy vọng sống động,
nhờ sự sống lại từ cõi chết của Chúa Giêsu Kitô”[50]:
“Lạy Đức Kitô,
khi chúng con suy ngắm những kỳ công vinh quang và những dấu chỉ lạ lùng được
thực hiện trong ngày Chúa Nhật của cuộc phục sinh thánh và vinh hiển của Chúa,
chúng con thốt lên: Chúc tụng ngày của Chúa, bởi vì trong ngày này công trình tạo
dựng đã được khởi đầu, … trần gian được cứu chuộc, … nhân loại được canh tân….
Trong ngày này, trời đất bừng sáng lên và cả trần gian ngập tràn ánh sáng. Chúc
tụng ngày của Chúa, bởi vì trong ngày này các cửa thiên đàng được mở ra để ông
Ađam và mọi kẻ bị lưu đày tiến vào đó mà không sợ hãi”[51].
Năm phụng vụ
1168. Khởi từ Tam Nhật Vượt Qua, như từ nguồn ánh sáng của mình, thời
đại mới của cuộc phục sinh tuôn đổ sự rực rỡ của nó trên suốt năm phụng vụ. Dần
dần, nhờ hết phần này đến phần khác của nguồn mạch này, trọn cả năm được biến
hình nhờ phụng vụ. Đó quả thật là “năm hồng ân của Chúa”[52].
Nhiệm cục cứu độ hoạt động trong khung thời gian, nhưng từ khi nhiệm cục đó được
hoàn tất trong cuộc Vượt Qua của Chúa Giêsu và trong việc tuôn ban Chúa Thánh
Thần, thì lúc tận cùng của lịch sử đã được tiền dự như “sự nếm trước” và Nước
Thiên Chúa bước vào thời gian của chúng ta.
1169. Vì vậy, Lễ Phục Sinh không
chỉ đơn giản là một ngày lễ giữa bao lễ khác: nó chính là “Ngày Lễ của các ngày
lễ”, “Lễ Trọng của các lễ trọng”, cũng như Thánh Thể là bí tích của các bí tích
(bí tích trọng đại). Thánh Athanasiô gọi lễ Phục Sinh là “Chúa Nhật vĩ đại”[53], cũng như Tuần Thánh được
Giáo Hội Đông phương gọi là “Tuần Lễ vĩ đại”. Mầu nhiệm Phục Sinh, trong đó Đức
Kitô tiêu diệt sự chết, thấm nhập vào thời gian già cỗi của chúng ta bằng sức mạnh
đầy quyền năng của Người, cho đến khi mọi sự phải quy phục Người.
1170. Tại Công đồng Nicêa (năm 325), tất cả các Giáo Hội đồng ý mừng
lễ Phục Sinh Kitô giáo vào Chúa Nhật sau ngày trăng tròn (14 tháng Nisan), sau
ngày xuân phân. Vì có những phương pháp khác nhau để tính ngày 14 tháng Nisan,
nên ngày mừng lễ Phục sinh trong các Giáo hội Đông phương và Tây phương đã
không luôn trùng khớp với nhau. Vì vậy, ngày nay các Giáo Hội này đang tìm cách
thỏa thuận để ngày đại lễ Phục sinh của Chúa lại có thể được mừng chung trong
cùng một ngày.
1243. Áo trắng nói lên
cách tượng trưng người chịu Phép Rửa đã mặc lấy Đức Kitô[54],
đã sống lại cùng với Đức Kitô. Cây nến
được thắp sáng từ nến phục sinh nói lên rằng Đức Kitô đã chiếu dọi ánh sáng cho
người tân tòng. Trong Đức Kitô, những người chịu Phép Rửa là “ánh sáng cho trần
gian” (Mt 5,14)[55].
Người tân tòng lúc đó là con cái
Thiên Chúa trong Người Con Duy Nhất. Họ có thể đọc lời kinh của những người con
Thiên Chúa: kinh Lạy Cha.
1287. Tuy nhiên, việc tràn đầy Thần Khí không phải chỉ dành cho Đấng
Messia, mà phải được truyền thông cho toàn
thể dân của Đấng Messia[56].
Nhiều lần, Đức Kitô đã hứa việc tuôn ban Thần Khí như vậy[57],
và Người đã thực hiện lời hứa đó trước tiên vào ngày lễ Vượt Qua[58], và sau đó, một cách hoành
tráng hơn, vào ngày lễ Ngũ Tuần[59]. Được tràn đầy Chúa Thánh
Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11),
và thánh Phêrô công bố rằng việc tuôn đổ Thánh Thần này là dấu chỉ thời đại
Messia[60]. Lúc đó những ai tin lời
rao giảng của các Tông Đồ và chịu Phép Rửa, thì đến lượt họ cũng được lãnh nhận
hồng ân Chúa Thánh Thần[61].
Số 1212: Các bí tích khai tâm Kitô Giáo
1212. Ba bí tích khai tâm Kitô giáo: Rửa Tội, Thêm Sức và Thánh Thể,
đặt nền tảng cho toàn bộ đời sống
Kitô hữu. “Việc tham dự vào bản tính Thiên Chúa, mà ân sủng của Đức Kitô ban
cho con người, có một sự tương tự nào đó với đời sống tự nhiên, là được sinh
ra, lớn lên và được nuôi dưỡng. Thật vậy, được tái sinh bằng bí tích Rửa Tội,
các tín hữu được củng cố bằng bí tích Thêm Sức, và sau cùng được bồi bổ bằng
bánh trường sinh trong bí tích Thánh Thể. Như vậy, nhờ các bí tích khai tâm
Kitô giáo, càng ngày họ càng được lãnh nhận những kho tàng của đời sống thần
linh và tiến đến sự trọn hảo của đức mến[62].
Số 1214-1222, 1226-1228, 1234-1245, 1254: Bí tích Rửa Tội
1214. Bí tích Rửa Tội được
gọi theo nghi thức trung tâm mà nó được thực hiện: Rửa (tiếng Hy Lạp là Baptizein) có nghĩa là “chìm xuống”,
“dìm xuống”. Việc “dìm xuống” nước tượng trưng cho việc mai táng người dự tòng
vào sự chết của Đức Kitô, và từ đó họ bước ra nhờ được sống lại với Người[63], với tư cách là một “thụ tạo
mới” (2 Cr 5,17; Gl 6,15).
1215. Bí tích này cũng được gọi là “Phép Rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới”
(Tt 3,5), bởi vì bí tích này biểu lộ và thực hiện việc sinh ra bởi nước và
Thánh Thần, mà nếu không có việc đó thì “không ai có thể vào Nước Thiên Chúa”
(Ga 3,5).
1216. “Phép Rửa này còn được gọi là ơn soi sáng, vì những ai học biết điều này (về giáo lý) thì được
soi sáng trong tâm trí”[64]. Người được Rửa Tội, vì
trong Phép Rửa họ được đón nhận Ngôi Lời là “ánh sáng thật chiếu soi mọi người”
(Ga 1,9), nên sau khi “được soi sáng”[65],
họ trở thành “con cái sự sáng”[66] và chính họ là “ánh sáng”
(Ep 5,8):
Bí tích Rửa Tội
“là hồng ân cao đẹp nhất và kỳ diệu nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa....
Chúng ta gọi bí tích đó là hồng ân, ân sủng, Rửa Tội, xức dầu, soi sáng, y phục
bất hoại, sự tắm rửa của ơn tái sinh, ấn tín và tất cả những gì quý giá nhất.
Nó được gọi là hồng ân, bởi vì được
ban cho những người trước đó chẳng có gì; là ân sủng, bởi vì được ban cả cho những người tội lỗi; là sự dìm xuống, bởi vì tội lỗi bị chôn vùi
trong nước; là xức dầu, bởi vì bí
tích này là thánh thiêng và vương giả (như những người được xức dầu); là ơn soi sáng, bởi vì nó sáng ngời và chói
lọi; là y phục, bởi vì nó che phủ sự
xấu xa của chúng ta; là tắm rửa, bởi
vì bí tích này rửa sạch; là ấn tín, bởi
vì nó là sự bảo toàn và là dấu chỉ của uy quyền”[67].
Những hình ảnh trong Giao Ước cũ
tiên báo bí tích Rửa Tội
1217. Trong phụng vụ Canh thức Vượt Qua, khi làm phép nước rửa tội, Hội Thánh long trọng tưởng nhớ những biến cố
trọng đại trong lịch sử cứu độ, những biến cố này là hình ảnh tiên báo mầu nhiệm
bí tích Rửa Tội:
“Lạy Chúa, Chúa
dùng quyền năng vô hình mà làm cho các bí tích trở nên hữu hiệu lạ lùng. Và qua
dòng lịch sử cứu độ, Chúa đã bao lần dùng nước do chính Chúa tạo dựng, để bày tỏ
hiệu năng của Phép Rửa”[68].
1218. Từ tạo thiên lập địa, nước, thụ tạo khiêm tốn và lạ lùng này,
là nguồn mạch sự sống và sự sinh sôi nảy nở. Kinh Thánh xem nước như được “ấp ủ”
bởi Thần Khí Thiên Chúa[69].
“Lạy Chúa,
ngay từ lúc vũ trụ khởi nguyên, Thánh Thần Chúa đã bay là là trên mặt nước, để
từ đó nước hàm chứa năng lực thánh hoá muôn loài”[70].
1219. Hội Thánh nhìn con tàu của ông Nôê là hình ảnh tiên báo ơn cứu
độ nhờ bí tích Rửa Tội: “Trong con tàu ấy, một số ít, cả thảy là tám người, được
cứu thoát nhờ nước” (1 Pr 3,20).
“Chúa lại dùng
nước hồng thuỷ làm hình ảnh tiên báo Phép Rửa ban ơn tái sinh, vì nước biểu thị
quyền năng Chúa, vừa tiêu diệt tội lỗi lại vừa khai mở một đời sống mới”[71].
1220. Nếu nước nguồn tượng trưng cho sự sống, thì nước biển là biểu
tượng của sự chết. Vì vậy, nước có thể là hình bóng của mầu nhiệm thập giá. Qua
biểu tượng này, bí tích Rửa Tội nói lên sự hiệp thông với sự chết của Đức Kitô.
1221. Đặc biệt cuộc vượt qua Biển Đỏ, việc giải thoát thật sự nhà
Israel khỏi kiếp nô lệ ở Ai Cập, loan báo ơn giải thoát nhờ Phép Rửa.
“Chúa đã giải
thoát con cháu ông Abraham khỏi vòng nô lệ mà dẫn qua Biển Đỏ ráo chân, để họ
tượng trưng cho một dân tộc mới, là những người được lãnh Phép Rửa sau này”[72].
1222. Cuối cùng, bí tích Rửa Tội được tiên báo trong việc vượt qua
sông Jorđanô, nhờ đó dân Thiên Chúa nhận được hồng ân là Đất đã được hứa ban
cho dòng dõi ông Abraham, là hình ảnh của đời sống vĩnh cửu. Lời hứa về gia tài
hồng phúc này sẽ được thực hiện trong Giao Ước Mới.
Số 1286-1289: Bí tích Thêm Sức
1286. Trong Cựu Ước các
tiên tri đã loan báo rằng Thần Khí Chúa sẽ ngự xuống trên Đấng Messia thiên hạ
đợi trông[73] vì sứ vụ cứu độ của Người[74]. Việc Chúa Thánh Thần ngự
xuống trên Chúa Giêsu, khi Người được ông Gioan làm phép rửa, là dấu chỉ cho thấy
chính Người là Đấng phải đến, chính Người là Đấng Messia, là Con Thiên Chúa[75]. Chúa Giêsu đã được thụ
thai bởi Chúa Thánh Thần; trọn cuộc đời và sứ vụ của Người đều hiệp thông trọn
vẹn với Chúa Thánh Thần, Đấng “Chúa Cha ban cho Người vô ngần vô hạn” (Ga
3,34).
1287. Tuy nhiên, việc tràn đầy Thần Khí không phải chỉ dành cho Đấng
Messia, mà phải được truyền thông cho toàn
thể dân của Đấng Messia[76].
Nhiều lần, Đức Kitô đã hứa việc tuôn ban Thần Khí như vậy[77],
và Người đã thực hiện lời hứa đó trước tiên vào ngày lễ Vượt Qua[78], và sau đó, một cách hoành
tráng hơn, vào ngày lễ Ngũ Tuần[79]. Được tràn đầy Chúa Thánh
Thần, các Tông Đồ bắt đầu rao giảng “những kỳ công của Thiên Chúa” (Cv 2,11),
và thánh Phêrô công bố rằng việc tuôn đổ Thánh Thần này là dấu chỉ thời đại
Messia[80]. Lúc đó những ai tin lời
rao giảng của các Tông Đồ và chịu Phép Rửa, thì đến lượt họ cũng được lãnh nhận
hồng ân Chúa Thánh Thần[81].
1288. “Từ đó, thực hiện ý muốn của Đức Kitô, các Tông Đồ đã đặt tay
ban hồng ân Thần Khí cho các tân tòng để kiện toàn ân sủng của bí tích Rửa Tội[82]. Chính vì vậy, như trong
thư gửi tín hữu Do thái, giáo lý về các phép rửa và về việc đặt tay đã được kể
vào số các yếu tố của giáo huấn sơ đẳng của Kitô giáo[83].
Việc đặt tay được công nhận cách đúng đắn theo truyền thống công giáo là nguồn
gốc của bí tích Thêm Sức, và một cách nào đó, bí tích này làm cho ân sủng ngày
lễ Ngũ Tuần luôn tồn tại trong Hội Thánh”[84].
1289. Từ rất xa xưa, để biểu thị rõ hơn hồng ân Chúa Thánh Thần, việc
xức dầu thơm (dầu Chrisma) được liên kết với việc đặt tay. Việc xức dầu này làm
sáng tỏ danh xưng “Kitô hữu” (Christianus) có nghĩa là “người được xức dầu” và
bắt nguồn từ danh xưng của chính Đức Kitô (Christus): “Thiên Chúa đã dùng Thánh
Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10,38). Nghi thức Xức Dầu
này tồn tại đến ngày nay trong nghi lễ Đông cũng như Tây phương. Vì vậy, ở Đông
phương, bí tích này được gọi là bí tích Dầu
Chrisma (Christmatio là việc xức
bằng dầu Myron, nghĩa là Dầu thánh). Ở Tây phương, thuật ngữ bí tích Thêm Sức (Confirmatio) nói lên rằng bí tích này vừa kiện toàn bí tích Rửa Tội,
vừa củng cố ân sủng của bí tích Rửa Tội.
Số 1322-1323: Bí tích Thánh Thể
1322. Bí tích Thánh Thể hoàn tất việc khai tâm Kitô giáo. Những người
đã được nâng lên hàng tư tế vương giả nhờ bí tích Rửa Tội, và được nên đồng
hình đồng dạng với Đức Kitô cách sâu xa hơn nhờ bí tích Thêm Sức, nay nhờ bí
tích Thánh Thể được tham dự vào chính hy tế của Chúa cùng với toàn thể cộng
đoàn.
1323. “Đang khi ăn bữa Tiệc ly, trong đêm Người bị nộp, Đấng Cứu Độ
chúng ta đã thiết lập Hy tế Thánh Thể bằng Mình và Máu Người, để nhờ đó, Hy tế
thập giá trường tồn qua các thời đại, cho tới khi Người đến, và cũng để ủy thác
cho Hiền Thê yêu quý của Người là Hội Thánh, việc tưởng nhớ sự Chết và Sống lại
của Người: Đây là bí tích tình yêu, là dấu chỉ sự hợp nhất, là mối dây bác ái,
là bữa tiệc Vượt Qua, nơi chúng ta lãnh nhận Đức Kitô, linh hồn được tràn đầy
ân sủng và nhận được bảo đảm cho vinh quang tương lai”[85].
[32] Canh thức Vượt qua, Công bố Tin Mừng Phục Sinh
(“Exsultet”): Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970)
272.
[36] Thánh Grêgôriô Nyssênô, De tridui inter mortem et
ressurectionem Domini nostri Iesu Christi spatio: Gregorii Nysseni opera, ed.
W. Jaeger-H. Langerbeck, v. 9 (Leiden 1967) 293-294 (PG 46, 417); x. Statuta
Ecclesiae Antiqua: DS 325; ĐGH Anastasiô II, Thư In prolixitate epistulae: DS
359; Thánh Hormidas, Thư Inter ea quae: DS 369; CĐ Tôlêđô XI, : DS 539.
[48] Canh thức Vượt qua, Công bố Tin Mừng Phục Sinh
(“Exsultet”): Sách Lễ Rôma, editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970)
272.
[62] X. ĐGH Phaolô VI, Tông hiến Divinae consortium
naturae: AAS 63 (1971) 657; x. Nghi thức gia nhập Kitô giáo cho người lớn,
Praenotanda 1-2 (Typis Polyglottis Vaticanis 1972) 7.
[68] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[70] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[71] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[72] Canh thức Vượt qua, Làm phép nước, 42: Sách Lễ Rôma,
editio typica (Typis Polyglottis Vaticanis 1970) 283.
[85] CĐ Vaticanô II, Hiến chế Sacrosanctum Concilium, 47:
AAS 56 (1964) 113.
Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - hdgmvietnam.com