DẪN NHẬP
Trong bối cảnh thế giới với đầy dẫy những thử thách và sự bất ổn của những cuộc chiến không biên giới giữa các quốc gia, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, của sự bách hại tôn giáo,… các mối nguy này có thể làm cho các tín hữu dần dần đánh mất niềm hy vọng và dẫn đến sự lung lạc về đời sống đức tin. Vì thế, vào ngày 20/7/2020, Bộ Giáo Sĩ đã ban hành Huấn thị “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh”. Cũng trong chiều hướng ấy, vào ngày 9/5/2024, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Sắc chỉ công bố Năm Thánh Thường lệ 2025 theo chu kỳ 25 năm một lần có tựa đề “Spes non Confundit - Hy vọng không làm thất vọng” (Rm 5,5), với mục đích tái khẳng định tầm quan trọng của các nhân đức trong đời sống Kitô hữu, hướng tới niềm hy vọng và sự hoán cải. Trở thành những người hành hương của niềm hy vọng, cộng đoàn giáo xứ sẽ là nơi lan tỏa niềm hy vọng ấy trong Năm Thánh - Năm Sứ Vụ này cho anh chị em, cho lương dân và cho những người không cùng tôn giáo.
Huấn thị “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh” đã trình bày giáo xứ như là “một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà”[1], “cộng đoàn của các cộng đoàn.”[2] Giáo xứ là một cộng đoàn dân Chúa, được qui tụ dưới quyền của Đức Giám mục giáo phận, nơi các tín hữu được mời gọi chia sẻ đời sống đức tin và sống yêu thương. Thánh Gioan Phaolô II trong Tông huấn Các Kitô Hữu Giáo Dân (Christifideles Laici, 30/12/1988) đã phác họa bốn hình ảnh về giáo xứ: giáo xứ - gia đình của Thiên Chúa với đầy ắp tình huynh đệ; giáo xứ - một cộng đồng đức tin; giáo xứ - một cộng đồng có tổ chức và giáo xứ - một cộng đồng truyền giáo (x. số 26-27).
Đức Phanxicô trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium, 24/11/2013) nhấn mạnh: “Giáo xứ không phải là một cơ chế lỗi thời; chính vì giáo xứ có tính linh hoạt cao, có thể đảm nhận những hình thức rất khác biệt đòi hỏi một sự uyển chuyển và tinh thần sáng tạo truyền giáo của người mục tử và của cộng đoàn. Chắc hẳn giáo xứ không phải là cơ chế duy nhất loan báo Tin Mừng, nhưng nếu tỏ ra có khả năng tự canh tân và thích nghi không ngừng, giáo xứ vẫn tiếp tục là chính ‘Hội Thánh đang sống giữa các gia đình của con cái mình’. Điều này có nghĩa là giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và với đời sống của người dân, và không trở thành một cơ chế cách ly với con người hay một nhóm khép kín gồm một ít người được tuyển chọn.”[3] Tông huấn này còn xác định rõ: “Giáo xứ là sự hiện diện của Hội Thánh tại một địa phương nhất định, một môi trường để nghe Lời Chúa, để tăng trưởng trong đời sống Kitô hữu, để đối thoại, rao giảng, làm việc bác ái, thờ phượng và cử hành. Trong mọi hoạt động của mình, giáo xứ cổ vũ và huấn luyện các thành viên của mình để trở thành những người loan báo Tin Mừng. Giáo xứ là một cộng đoàn của các cộng đoàn, một thánh điện để những người khát nước đến uống dọc đường, và một trung tâm thường xuyên vươn ra truyền giáo. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng lời kêu gọi duyệt lại và canh tân các giáo xứ của chúng ta vẫn chưa đủ sức đưa các giáo xứ đến gần người dân hơn, biến các giáo xứ trở thành những môi trường sống hiệp thông và tham dự, và làm cho giáo xứ nên hoàn toàn hướng về truyền giáo.”[4] Đó cũng là những chiều kích trong tiến trình hiệp hành của Giáo Hội, “vì một Giáo Hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ.”
1. GIÁO XỨ - CỘNG ĐOÀN CỦA CÁC CỘNG ĐOÀN
Giáo xứ là trung tâm của đời sống Giáo Hội địa phương, là “tế bào của giáo phận.”[5] Thánh Gioan Phaolô II trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu (Ecclesia in Asia, 6/11/1999) đã nhấn mạnh “giáo xứ là nơi thông thường để các tín hữu qui tụ và lớn lên trong đức tin, sống mầu nhiệm hiệp thông Giáo Hội và dự phần trong sứ mạng của Giáo Hội” (số 25). Đó là nơi diễn ra các cử hành phụng vụ, hoạt động mục vụ và các sinh hoạt của các tổ chức và đoàn thể khác như Legio Mariae, Thiếu Nhi Thánh Thể, Lòng Chúa Thương Xót, Hội Hiền mẫu, các nhóm cầu nguyện,… giúp các tín hữu sống tâm tình hiệp nhất và chia sẻ đời sống đức tin. Giáo xứ chính là gia đình của Thiên Chúa được mời gọi làm sáng tỏ hình ảnh của mình trong mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, giáo xứ được ví như là cộng đoàn của các cộng đoàn gồm nhiều thành phần khác nhau làm nên giáo xứ sống tâm tình hiệp thông và hiệp nhất với nhau.[6]
1.1. Giáo xứ - Cộng đoàn hiệp thông
Giáo xứ là một cộng đồng đức tin, “được xây dựng trên một thực tại thần học, vì đó là một cộng đồng Thánh Thể.”[7] Công đồng Vaticanô II, trong Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium, 21/11/1964) đã nhấn mạnh Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu, và qua Bí tích này, họ “dâng lên Thiên Chúa Tế Vật thần linh và hiến dâng chính mình cùng với Tế Vật ấy.”[8]
Chiều kích cộng đoàn được thể hiện khi mọi thành phần trong giáo xứ đón nhận những sự khác biệt từ mọi phương diện “không còn chuyện phân biệt Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ, nhưng tất cả chỉ là một trong Chúa Kitô” (Gl 3,28; Cl 3,11) để xây dựng sự hiệp thông trong Giáo Hội bởi “sự hiệp thông là hoa quả và là sự tỏ bày tình yêu, một tình yêu phát xuất từ lòng Thiên Chúa Cha vĩnh hằng và được đổ tràn xuống trên chúng ta nhờ Thần Khí Chúa Giêsu ban cho chúng ta (x. Rm 5,5), làm cho chúng ta nên ‘một lòng một ý’ (Cv 4,32). Chính vì xây dựng sự hiệp thông tình yêu này mà Giáo Hội xuất hiện như ‘bí tích’, như là dấu chỉ và khí cụ của sự hiệp thông mật thiết với Chúa và của sự hiệp nhất nhân loại.”[9]
Huấn thị nói rõ: “Khi mỗi thành phần đều nhìn nhận vai trò bổ túc của mình trong việc phục vụ cộng đoàn, một mặt, người ta sẽ thấy được thừa tác vụ được thực hiện trọn vẹn qua sự cộng tác giữa cha sở và các linh mục phụ tá của ngài, đàng khác, người ta cũng nhận ra những đặc sủng khác nhau của các thầy phó tế, những người thánh hiến và giáo dân cùng cộng tác để xây dựng thân thể duy nhất của Chúa Kitô (x. 1Cr 12,12).”[10] Thật vậy, giáo xứ là cộng đoàn mà trong đó mỗi cá nhân có vai trò như những chi thể trong thân thể Chúa Kitô. Thánh Phaolô Tông đồ đã diễn tả sự hiệp thông ấy như sau: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Chúa Kitô cũng vậy. Thật thế, tất cả chúng ta, dầu là Do-thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy tràn một Thần Khí duy nhất… Giả như toàn thân chỉ là mắt, thì lấy gì mà nghe? Giả như toàn thân chỉ là tai, thì lấy gì mà ngửi?” (1Cr 12,12-13.17).
Sự qui tụ của cộng đoàn giáo xứ phác họa lại hình ảnh của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai tại Giêrusalem, một cộng đoàn sống tình hiệp thông, một cộng đoàn lý tưởng theo tinh thần Phúc Âm mà Thánh sử Luca đã thuật lại trong sách Công vụ Tông đồ: “Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng… Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa” (Cv 2,42-47).
Đức Thánh Cha Phanxicô qua Tông thư về Đào Tạo Phụng Vụ cho Dân Thiên Chúa (Desiderio Desideravi, 29/6/2022) đã mời gọi toàn thể cộng đồng Dân Chúa tái khám phá ý nghĩa, giá trị và vẻ đẹp của phụng vụ nhằm bảo toàn sự hiệp thông trong Giáo Hội qua lời phát biểu của Thánh Phaolô VI tại phiên họp bế mạc kỳ họp thứ hai của Công đồng (4/12/1963): “Phụng vụ là nguồn mạch đầu tiên của sự hiệp thông thần linh, trong đó Thiên Chúa chia sẻ sự sống của chính Người cho chúng ta. Phụng vụ cũng là trường học đầu tiên của đời sống thiêng liêng. Phụng vụ là món quà đầu tiên mà chúng ta phải trao cho các Kitô hữu hợp nhất với chúng ta trong đức tin và lòng nhiệt thành cầu nguyện.”[11] Vì thế, Thiên Chúa luôn là đối tượng của mọi sự khao khát của con người và “khát vọng vô hạn của Người muốn tái lập mối hiệp thông với chúng ta đã và vẫn là dự định từ đầu của Người, sẽ không được thỏa mãn cho đến khi mọi người, thuộc mọi chi họ, ngôn ngữ, dân tộc và quốc gia (Kh 5,9) được ăn Thịt và uống Máu của Người: đó là lý do tại sao chính bữa tiệc này phải được hiện tại hóa trong việc cử hành Thánh Thể, cho khi Người trở lại.”[12]
Hội đồng Giám mục Việt Nam trong Thư Chung gửi Cộng đồng Dân Chúa năm 2022 một lần nữa khẳng định: “Mối hiệp thông giữa các tín hữu được xây dựng trên nền tảng Lời Chúa… Bí tích Thánh Thể là nguồn suối hiệp thông. Khi chúng ta rước Mình và Máu Chúa Kitô, chúng ta được hiệp thông với Chúa và được liên kết với nhau (x. 1Cr 10,16-17). Vì thế, các tín hữu cần tham dự thánh lễ cách tích cực và sống động, nhờ đó ngày càng củng cố mối hiệp thông với Chúa và với nhau trong Chúa. Cũng cần giúp các tín hữu hiểu biết phụng vụ, như Đức Phanxicô mời gọi trong Tông thư về Đào Tạo Phụng Vụ cho Dân Chúa (Desiderio Desideravi), ban hành ngày 29/6/2022” (số 5a,5b). Thánh Thể là nguồn sống của giáo xứ, nuôi dưỡng đời sống đức tin của cộng đoàn và được xem như là “mối dây bí tích để giáo xứ hiệp thông hoàn toàn với toàn thể Giáo Hội.”[13]
Như thế, cộng đoàn giáo xứ thể hiện sự hiệp thông trong các cử hành phụng vụ, nhất là Thánh lễ Chúa nhật, là ngày hướng về Thiên Chúa qua việc kính nhớ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô, ngày của sự gặp gỡ và sống tình liên đới yêu thương. Mỗi người trong giáo xứ tuy có phận vụ riêng như Hội đồng giáo xứ, ca đoàn, giáo lý viên, các giới,… nhưng tất cả đều hướng về lợi ích chung của Giáo Hội, nghĩa là phải có sự hiệp thông, cộng tác làm việc chung với nhau, như Thánh Augustinô đã nói: “Thiên Chúa dựng nên con người không cần con người, nhưng để cứu chuộc con người, Ngài cần đến sự cộng tác của con người.” Do đó, Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh: “Các hoạt động phụng vụ không phải là những hoạt động riêng tư, nhưng là những cử hành của Giáo Hội... Các nghi lễ theo bản chất phải được cử hành chung với sự tham dự đông đảo và tích cực của giáo dân, vì thế nên nhớ rằng, mỗi khi có thể, phải dành ưu tiên cho việc cử hành cộng đồng hơn là cử hành một mình hoặc gần như riêng tư.”[14]
Sự hiệp thông của cộng đoàn giáo xứ còn được thể hiện qua các công việc đạo đức như cầu nguyện, các thực hành bác ái,…: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,20). Công đồng Vaticanô II qua Hiến chế về Phụng Vụ Thánh (Sacrosanctum Concilium, 4/12/1963) đã xác định: “Đời sống thiêng liêng không chỉ hạn hẹp trong việc tham dự phụng vụ thánh. Thật vậy, người Kitô hữu được mời gọi cầu nguyện chung, nhưng cũng phải biết vào phòng riêng âm thầm cầu nguyện cùng Chúa Cha, hơn nữa phải cầu nguyện không ngừng như lời Thánh Tông đồ khuyên dạy” (số 12).
1.2. Giáo xứ - Cộng đoàn hiệp nhất
Yếu tố cần thiết để xây dựng đời sống đức tin trong cộng đoàn giáo xứ là sự hiệp nhất. Thánh Gioan Tông đồ đã dùng hạn từ “nên một” (ὦσιν ἓν) để diễn tả việc Chúa Giêsu cầu nguyện cho sự hiệp nhất (x. Ga 17,11.20-23). Cộng đoàn Kitô hữu sơ thời đã sống tâm tình hiệp nhất, một cộng đoàn đầy ắp tình huynh đệ vì họ có chung một niềm tin, một Phép Rửa, một Thần Khí (x. Ep 4,5), hiệp nhất trong niềm hy vọng. Họ đã cùng nhau cầu nguyện, cử hành Bí tích Thánh Thể, và tham gia vào các hoạt động của cộng đoàn (x. Cv 2,42-47).
Như thế, Lời Chúa và Thánh Thể được xem như là những nguồn mạch chính yếu của sự hiệp nhất trong cộng đoàn giáo xứ. Đó là những nguồn lương thực thiêng liêng nuôi sống người Kitô hữu. Vì Lời Chúa là chính Chúa Kitô, nên đón nhận Lời Chúa là đón nhận chính Chúa Kitô. Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh đời sống Kitô hữu” (LG, số 11), và “trong đó chính Chúa Kitô hiện diện, được dâng hiến và trở nên lương thực, và nhờ đó mà Giáo Hội tiếp tục sống, tăng trưởng và hiệp nhất” (GL, 897; x. PO, số 5). Trong bài giảng Thánh lễ vào ngày 21/4/2011 Thứ Năm Tuần Thánh, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã nói: “Bí tích Thánh Thể là một cuộc gặp gỡ rất cá nhân sâu xa với Chúa, nhưng không bao giờ là một hành động đạo đức cá nhân riêng lẻ. Chúng ta cần phải cử hành mầu nhiệm đó với nhau.”[15] Tất cả cùng tham dự cử hành phụng vụ duy nhất và cùng chia sẻ một tấm bánh duy nhất. Sự hiệp nhất mang tính cộng đoàn đó còn được thể hiện trong phần kinh nguyện Thánh Thể khi chủ tế đọc “cùng với Đức Giáo Hoàng…, Đức Giám mục…chúng con.”
Công đồng Vaticanô II nhấn mạnh: “Các hoạt động phụng vụ là ‘bí tích hiệp nhất’, nghĩa là đoàn Dân Thánh được qui tụ và hướng dẫn dưới quyền của Giám mục.”[16] Giáo Hội được mời gọi thực thi sứ mệnh hiệp nhất đã được Chúa Giêsu ủy thác giữa lòng nhân loại: “Trong Chúa Kitô, Giáo Hội như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất mọi người.”[17] Công đồng còn khẳng định: “Khi đã dần dần liên kết với nhau và ý thức nhiều hơn về sự hiệp nhất, gia đình nhân loại phải bắt tay vào việc xây dựng một thế giới thực sự nhân bản hơn cho tất cả mọi người ở mọi nơi.”[18] Như thế, cộng đoàn giáo xứ không chỉ góp phần vào việc phát triển Giáo Hội mà còn đóng góp cho trần gian trong việc xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và yêu thương qua những hoạt động bác ái của mình. Đó là nét đặc thù của bậc giáo dân là sống giữa thế gian và giữa các công việc trần thế, họ được Thiên Chúa mời gọi để thực thi việc tông đồ với tinh thần Kitô hữu như chất men thấm vào thế giới.[19] Hằng năm Giáo Hội đã dành riêng một tuần từ ngày 18/1-25/1 để cầu nguyện cho sự hiệp nhất các Kitô hữu.
2. GIÁO XỨ - CỘNG ĐOÀN THAM GIA
Trong một thế giới tất bật ngược xuôi và trong thời đại công nghệ, con người tự thu mình vào trong phạm vi hẹp của không gian và thời gian. Các tín hữu không còn thời giờ để gặp nhau và việc gặp gỡ giữa các thành viên trong gia đình, trong cộng đoàn, trong giáo xứ cũng dần trở nên khó khăn, thì việc hành hương đến các Đền Thánh sẽ là dấu chỉ của sự hiệp thông, tham gia và sứ vụ bởi đó là nơi thánh để tiếp đón và là nơi dành riêng để khơi dậy niềm hy vọng, sự hiệp nhất.[20] Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhiều lần nhấn mạnh đến nền văn hóa gặp gỡ qua các Tông huấn, sứ điệp của ngài. Cũng thế, Đức Bênêđictô XVI đã đề cập đến tầm quan trọng của việc gặp gỡ này trong Thông điệp thứ ba của ngài: “Xã hội càng ngày càng đi đến toàn cầu hóa giúp chúng ta gần gũi nhau, nhưng chưa làm cho chúng ta thành anh em với nhau.”[21] Những ai không thể hành hương về các Đền Thánh cùng với cộng đoàn giáo xứ, cách riêng trong Năm Thánh, vì lý do nào đó, có thể bởi sự thiếu thốn về kinh tế vật chất, đường sá hay nguyên do sức khỏe, cũng có thể đến các nhà thờ, nhà nguyện trong giáo phận hoặc tại các nơi mà Đấng Bản Quyền địa phương đã chỉ định. Ngay từ những lời đầu tiên của Sắc chỉ Spes non Confundit, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết: “Tôi nghĩ đến tất cả những người hành hương của niềm hy vọng sẽ đến Rôma để sống Năm Thánh, và nghĩ đến tất cả những ai dù không thể đến được Thành phố của hai Tông đồ Phêrô và Phaolô, nhưng cũng sẽ cử hành Năm Thánh tại các Giáo Hội địa phương của họ…”[22]
Qua các cử hành phụng vụ, cộng đoàn giáo xứ không chỉ được qui tụ mà còn mở ra một hành trình đức tin và được dẫn đưa vào cuộc gặp gỡ sâu xa với Thiên Chúa, gặp gỡ tha nhân và gặp gỡ chính mình. Vì thế, Huấn thị nhấn mạnh “việc năng viếng các Đền Thánh có thể giúp người tín hữu tái khám phá chính mình là người ‘đã được Chúa Thánh Thần xức dầu’ (x. 1Ga 2,20), nghĩa là họ được thánh hiến nhờ Bí tích Rửa Tội. Ở những nơi như thế, người ta học biết cách cử hành sốt sắng sự hiện diện mầu nhiệm của Thiên Chúa ở giữa Dân Người qua phụng vụ, qua vẻ đẹp của sứ mệnh loan báo Tin Mừng của những người đã được thanh tẩy, và qua lời mời gọi thực thi đức ái trong đời sống hằng ngày.”[23] Vậy nên, cuộc hành hương đến các Đền Thánh là cuộc hành hương của tâm hồn, bởi thế, phải gắn kết với việc cầu nguyện, thờ phượng và việc lãnh nhận các bí tích, nhất là Bí tích Thánh Thể và Hòa Giải, nhờ đó những người hành hương sẽ cảm nghiệm sâu sắc về “ân sủng và hy vọng cho toàn thể Giáo Hội”[24], về cuộc gặp gỡ thực sự với Thiên Chúa, với tha nhân và gặp gỡ chính mình.
2.1. Đền thánh - Nơi gặp gỡ Thiên Chúa
Đền Thờ là dấu chỉ giao ước Thiên Chúa ký kết với Dân Người. Với người Do-thái, Đền Thờ Giêrusalem được xem là trung tâm phụng tự, là thánh điện Thiên Chúa ngự, là nơi các tín hữu qui tụ về, để họ được gặp gỡ Thiên Chúa và cử hành các lễ hội. Có ba dịp lễ lớn mà trong năm mỗi người Do-thái phải hành hương về Đền Thờ Giêrusalem. Đó là lễ Vượt Qua, lễ Ngũ Tuần (lễ Năm Mươi) và lễ Lều (x. Xh 23,14-17; 34,22-23; Đnl 16,16-17). Năm 12 tuổi Chúa Giêsu đã cùng với cha mẹ Người hành hương về Giêrusalem theo luật (x. Lc 2,41-52).
Thuật ngữ hành hương thực sự chẳng phải được nói đến trong thời đại hiện nay, nhưng đã có từ rất lâu trong Thánh Kinh: “Hành hương là một trải nghiệm tôn giáo phổ quát và là biểu hiện điển hình của lòng đạo đức bình dân. Nó luôn được kết nối với một ngôi đền, mà nó là một thành phần không thể thiếu. Người hành hương cần Đền Thờ, và Đền Thờ cần người hành hương.”[25] Hành hương chủ yếu là hành động của phụng tự. Vì thế, Đức Thánh Cha Phanxicô trong Sắc chỉ Spes non Confundit đã viết: “Hành hương là yếu tố cơ bản của mọi sự kiện Năm Thánh. Lên đường là đặc điểm của người đi tìm ý nghĩa của cuộc sống” (số 5).
Trong cuộc gặp gỡ với các Giám đốc và nhân viên các Đền Thánh trên khắp thế giới vào ngày 11/11/2023, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh Đền Thánh là nhà cầu nguyện, là nơi các tín hữu hành hương có thể gặp gỡ Thiên Chúa, nơi tràn ngập sự an ủi và lòng thương xót của Thiên Chúa, và là nơi họ nhận được những lời và những dấu hiệu của niềm hy vọng và qua đó, những người hành hương “sẽ trở nên những dấu chỉ hy vọng hữu hình cho những anh chị em đang sống trong những hoàn cảnh khốn cùng” (Sắc chỉ Spes non Confundit, số 10), cho một thế giới đang thực sự khao khát công lý và hòa bình như hiện nay. Cuộc gặp gỡ này hoán cải và đổi mới cuộc sống: “Có thể thấy đời sống Kitô hữu là một con đường cần những khoảnh khắc mạnh mẽ để nuôi dưỡng và củng cố niềm hy vọng như người bạn đồng hành không thể thay thế, cho ta thoáng thấy mục tiêu là cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu.”[26] Qua Bí tích Hòa Giải mà họ lãnh nhận, những người hành hương cảm nghiệm được lòng thương xót của Thiên Chúa để từ đó họ biết sống cởi mở hơn, yêu thương hơn và tha thứ hơn: “Nhờ Bí tích Hòa Giải, Thiên Chúa thứ tha tội lỗi, những tội ấy hoàn toàn bị xóa bỏ; tuy nhiên, vẫn còn đó những dấu vết xấu xa do tội lỗi để lại trong lối hành xử và cách suy nghĩ của chúng ta. Nhưng lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn mạnh hơn. Lòng thương xót trở thành những ân xá của Chúa Cha, qua trung gian Hiền Thê của Chúa Kitô, được ban cho tội nhân vừa lãnh ơn giao hòa, sẽ giải gỡ người ấy khỏi tất cả những hậu quả của tội lỗi, để có thể hành động với đức ái và lớn lên trong tình yêu, hơn là lại rơi vào tội lỗi”[27] và thiết nghĩ không có cách nào tốt hơn, hữu hiệu hơn để biết Thiên Chúa hơn là để cho mình được Người hòa giải (x. 2Cr 5,20).[28] Qua Bí tích Xức Dầu, những bệnh nhân và người cao tuổi lãnh nhận vào các dịp hành hương tại các Đền Thánh, cách riêng trong ngày lễ Đức Mẹ Lộ Đức (11/02), cũng là ngày quốc tế bệnh nhân do Thánh Gioan Phaolô II thiết lập năm 1992, cảm nhận được sự hiện diện gần gũi của Thiên Chúa, được ơn tha tội và sức khỏe: “Nhờ việc xức dầu thánh này và nhờ lòng từ bi nhân hậu của Chúa, xin Chúa dùng ơn Chúa Thánh Thần mà giúp đỡ ông (bà, anh, chị, em). (Amen) Để Người giải thoát ông (bà, anh, chị, em) khỏi mọi tội lỗi, cứu chữa và thương làm cho ông (bà, anh, chị, em) được thuyên giảm (Amen).” (Cẩm Nang Các Nghi Thức Bí Tích và Á Bí Tích).
Một điều không thể thiếu trong các cuộc hành hương là cầu nguyện. Vì Đền Thánh là nhà cầu nguyện (x. Ga 2,16) nên nếu thiếu đời sống cầu nguyện, cuộc hành hương đó chẳng khác nào là một hành trình du lịch về tôn giáo: Đến rồi đi mà không còn đọng lại chút gì về cảm nghiệm tôn giáo và những khao khát gặp gỡ Thiên Chúa. Đỉnh cao và điểm nhấn của cuộc hành hương là Thánh lễ và cầu nguyện được xem như là linh hồn của cuộc hành hương: “Trong Bí tích Thánh Thể, với tình hiệp thông, do Thiên Chúa ân ban, trở nên mối dây thiêng liêng nối kết các tín hữu với các thánh và các chân phước, một cộng đoàn đông đảo không sao đếm được (x. Kh 7,4). Sự thánh thiện của các ngài sẽ hỗ trợ cho sự mỏng dòn của chúng ta, và như thế, với lời cầu nguyện và đời sống của mình, Mẹ Giáo Hội có thể nâng đỡ sự yếu đuối của người này bằng sự thánh thiện của người khác.”[29]
2.2. Đền thánh - Nơi gặp gỡ tha nhân
Đức Thánh Cha Phanxicô trong Thông điệp về Tình Huynh Đệ và Tình Bằng Hữu Xã Hội (Fratelli Tutti, 3/10/2020) nhấn mạnh rằng con người chỉ có thể hiểu tường tận rõ ràng về chính mình khi họ mở ra tương quan với người khác: “Tôi chỉ thông hiệp với chính mình trong mức độ tôi thông hiệp với người khác.”[30] Đền Thánh cũng như giáo xứ luôn là ngôi nhà mở rộng cửa để đón nhận mọi người và phục vụ mọi người, theo cách nói của Thánh Gioan XXIII, là “giếng nước đầu xóm, nơi mọi người đến giải khát.”[31] Giếng nước, một hình ảnh rất gần gũi và đã đi vào nền văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là nơi để người ta đến lấy nước, nhưng còn là nơi để qui tụ, gặp gỡ, chia sẻ và cảm nhận tình làng nghĩa xóm. Vì thế, các Kitô hữu muốn là “Hội Thánh phục vụ, biết ra khỏi nhà và ra khỏi nơi phụng tự của mình, ra khỏi phòng thánh của mình, hầu có thể đồng hành với đời, nâng đỡ niềm hy vọng, làm dấu chỉ cho sự hiệp nhất,… xây dựng những cây cầu, phá đổ các bức tường, gieo những hạt giống hòa giải.”[32] Đền Thánh giống giáo xứ ở chỗ là nơi đáp ứng mọi khát vọng tâm linh của các tín hữu… Vì thế, các cuộc hành hương của cộng đoàn giáo xứ tới những Đền Thánh là những phương thế quý giá có thể giúp củng cố tình hiệp thông huynh đệ, là nơi gặp gỡ giữa các bệnh nhân và người khỏe mạnh nhằm củng cố đời sống đức tin và thôi thúc các tín hữu hoán cải cuộc sống sau cuộc hành hương để rồi khi trở về giáo xứ, mọi người trở nên cởi mở và hiếu khách hơn.[33]
Được nuôi dưỡng và tham dự vào đời sống phụng vụ, cộng đoàn giáo xứ nhiệt thành góp phần vào những hoạt động tông đồ của chính cộng đoàn đó; họ có thể cùng nhau lên đường và dẫn đưa những người bấy lâu nay vốn nguội lạnh, trễ nải trở về với Giáo Hội. Thánh Gioan Phaolô II đã viết trong Tông thư Khởi Đầu Thiên Niên Kỷ Mới (Novo Millennio Inuente, 6/1/2001): “Để có được một dấu chỉ của sự dấn thân thực thi bác ái và thăng tiến con người, bén rễ trong những đòi hỏi cơ bản nhất của Tin Mừng, tôi đã quyết định Năm Thánh, cộng thêm một mùa gặt to lớn về bác ái đã mang lại kết quả - ở đây cách riêng tôi nghĩ tới sự giúp đỡ đối với rất nhiều anh chị em nghèo của chúng ta ngõ hầu họ có khả năng tham dự Năm Thánh - (Năm Thánh) phải để lại một sự đóng góp, nói được là hoa quả và là dấu ấn của tình yêu do Năm Thánh khởi động. Nhiều người hành hương đã dâng cúng và nhiều vị lãnh đạo trong ngành tài chánh đã phối hợp cung cấp một sự giúp đỡ quảng đại, nhờ đó đã bảo đảm cho việc cử hành Năm Thánh cách xứng hợp. Một khi đã trang trải hết các chi phí cho năm nay, tiền còn dư sẽ hiến cho những mục đích từ thiện. Điều quan trọng là một biến cố tôn giáo vĩ đại như thế phải được tách ra khỏi bất cứ hình thức trục lợi nào. Bất cứ số tiền nào còn lại phải được sử dụng để tiếp tục kinh nghiệm thường được tái diễn từ lúc khởi đầu Giáo Hội, lúc cộng đồng Giêrusalem cung hiến cho những người không-kitô dấu chỉ xúc động của sự trao đổi cách tự nguyện những tặng vật, đến nỗi giữ mọi sự làm của chung, cho kẻ nghèo hưởng nhờ (x. Cv 2,44-45). Sự dâng cúng được thiết lập chỉ là một giòng nước nhỏ chảy vào trong con sông dài của đức ái Kitô giáo chảy qua thế kỷ. Một giòng nước nhỏ nhưng có ý nghĩa: nhờ Năm Thánh thế giới nhìn về Rôma, là Giáo Hội ‘chủ trì trong đức ái’ và đã mang các tặng phẩm của mình đến cho Phêrô. Bây giờ đức ái bày ra tại trung tâm đạo Công giáo bằng cách nào đó lại chảy lui đến thế giới qua dấu chỉ này, một dấu chỉ có ý nghĩa là một di sản bền bỉ và một sự nhắc nhớ sự hiệp thông đã kinh nghiệm trong Năm Thánh.”[34]
Gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ tha nhân và sống trong niềm hy vọng của Năm Thánh, những người hành hương được chữa lành, được biến đổi và tìm thấy chính mình.
3. GIÁO XỨ - CỘNG ĐOÀN CỦA SỨ VỤ
Thực thi lệnh truyền của Chúa Giêsu Phục Sinh để lại cho các môn đệ (x. Mt 28,19-20), sau khi đã gặp gỡ Thiên Chúa và gặp gỡ nhau trong các cử hành phụng vụ trong tư cách là cộng đoàn hiệp thông, chia sẻ trong tình huynh đệ, cộng đoàn giáo xứ có bổn phận và trách nhiệm loan báo Phúc Âm, mà trong đó “Bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể công cuộc loan báo Tin Mừng”[35]: “Giáo xứ là một cộng đoàn được Chúa Thánh Thần qui tụ để loan báo Lời Chúa và tái sinh những con cái mới của Chúa nơi giếng rửa tội.”[36] Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi Hội Thánh là người môn đệ truyền giáo phải đi ra, dấn thân và đồng hành khởi đi từ sự gặp gỡ, đối thoại, lắng nghe (x. Tông huấn EG). Tông huấn Christifideles Laici đã khẳng định: “Giáo xứ là một hình thức tông đồ cộng đồng kiểu mẫu, vì đó là nơi qui tụ mọi hạng người thành một cộng đoàn và đem họ vào tinh thần đại đồng của Giáo Hội. Giáo Hội nên tập thói quen cộng tác chặt chẽ với các linh mục của mình trong các hoạt động của giáo xứ. Họ cũng nên tập quen trình bày với cộng đoàn Giáo Hội về những vấn đề riêng của cộng đoàn mình hay của cả thế giới, hoặc những vấn đề liên quan đến ơn cứu độ con người, để cùng nhau góp ý kiến, nghiên cứu và giải quyết. Họ cũng phải tùy khả năng mà trợ giúp những công cuộc tông đồ và truyền giáo của gia đình Giáo Hội địa phương” (số 27).
3.1. Người nghèo - Một phương thức truyền giáo
Trong một thế giới của nhiều sự đổi thay, với cái nhìn của nhân loại, nơi tôn giáo dường như bị xem là trở nên cũ kỹ, là lỗi thời, xã hội xem ra dường như chỉ biết đến tôn giáo qua báo đài, sách vở, các phương tiện truyền thông,… chính những người nghèo và những người bị gạt ra bên lề xã hội lại là nẻo đường để Tin Mừng của Chúa được lan rộng đến tận cùng trái đất. Những người nghèo khổ, bệnh tật, những người thường bị khinh dể và “không có gì trả lại cho ngươi” (Lc 14,14) là những người đầu tiên được đón tiếp. Nơi họ có nhiều điều để trao và dạy chúng ta.[37] Vì thế, giáo xứ sẽ là một cộng đoàn truyền giáo, trong đó điểm nhấn phải là người nghèo. Người nghèo không chỉ là đối tượng để phục vụ, hay nói theo cái nhìn của thánh Vinh Sơn Phaolô, họ cũng là ‘thầy dạy’ của chúng ta và là trung tâm của các hoạt động truyền giáo: “Là một ‘thánh điện’ rộng mở cho mọi người, giáo xứ được mời gọi vươn ra đến với mọi người, không trừ ai, cần phải nhớ rằng người nghèo và người bị loại trừ phải luôn luôn chiếm vị trí ưu tiên trong lòng Giáo Hội.”[38] Bởi lẽ, “nếu không có sự lựa chọn ưu tiên vì người nghèo, việc rao giảng Tin Mừng, tự nó là hình thức cơ bản của đức ái, sẽ có nguy cơ bị ngộ nhận hay bị nhấn chìm bởi đại dương những lời nói hằng ngày nuốt trửng chúng ta trong cái xã hội truyền thông hôm nay.”[39] Như thế, việc lựa chọn ưu tiên người nghèo phải xuất phát từ tình yêu Thiên Chúa.
3.1.1. Hình ảnh người nghèo
Người nghèo là chủ đề được quan tâm và đề cập rất nhiều. Người nghèo được xác định ở đây không chỉ là những người thiếu thốn về phương diện vật chất như nhà cửa, lương thực, y tế, giáo dục,… mà còn cả yếu tố tinh thần như những người bị loại trừ, bị áp bức, bị tổn thương, mất niềm hy vọng vào tương lai, bị đối xử bất công, không nơi nương tựa,… Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi Giáo Hội ra đi đến với vùng ngoại biên và khi nói về các vùng ngoại biên, ngài nghĩ ngay đến người nghèo. Nhiều văn kiện của Giáo Hội đã đưa ra những chỉ dẫn thiết thực để phục vụ người nghèo một cách hiệu quả và ý nghĩa.
Tông huấn về Đời Sống Thánh Hiến (Vita Consecrata, 25/3/1996) đã định nghĩa người nghèo có thể là người đói khát, người ăn xin, người không thuốc men, người bị áp bức, người bị gạt ra bên lề, người già cả, đau yếu bệnh tật, trẻ em và những ai bị đối xử như bước đường cùng của xã hội.[40] Do đó, sự nghèo khổ không bị giới hạn ở cái nghèo về vật chất. Tông huấn này còn khẳng định sự lựa chọn người nghèo nằm trong bản chất của tình yêu sống theo Chúa Kitô, bởi lẽ “ở thế gian này, Chúa Kitô nghèo trong con người kẻ nghèo…là Thiên Chúa tuy giàu có, nhưng khi làm người, Người trở nên nghèo. Thực ra, cũng con người đó đã nên giàu có, nay lên trời, ngự bên hữu Chúa Cha. Nhưng đồng thời, Người vẫn ở lại dưới thế như người nghèo, đói, khát, không áo che thân.”[41] Và sẽ không trở nên dư thừa khi chủ đề về người nghèo được nhìn nhận theo cái nhìn của Thánh Kinh và giáo huấn của Giáo Hội để hướng tới việc xây dựng một cộng đoàn giáo xứ đầy bác ái, yêu thương.
3.1.2. Người nghèo theo nền tảng Thánh Kinh: Đối tượng của lòng thương xót
Để hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của lòng thương xót, thiết nghĩ chúng ta cũng để tâm lắng nghe những lời chỉ dẫn của Đức Phanxicô trong Tông sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót (Misericordiae Vultus, 11/4/2015): “Giáo Hội sẽ quan tâm hơn đến trách nhiệm trở nên dấu chỉ sống động cho tình yêu Chúa Cha giữa trần thế. Chúng ta nhớ lại những lời nói đầy ý nghĩa của Thánh Gioan XXIII, phát biểu vào ngày khai mạc Công đồng, để xác định hướng đi của Công đồng: “Ngày nay, Hiền Thê của Chúa Kitô muốn sử dụng phương dược của lòng thương xót hơn là của sự nghiêm khắc… Trong khi giơ cao ngọn đuốc chân lý đức tin nơi Công đồng này, Giáo Hội Công giáo muốn thể hiện chính mình như một người mẹ đầy yêu thương của tất cả mọi người, một người mẹ từ ái, nhẫn nại, luôn được thôi thúc bởi lòng thương xót và tình nhân hậu đối với những người con đang xa rời mẹ” (Diễn từ khai mạc Công đồng Vaticanô II, Gaudet Mater Ecclesia, 11/10/1962, 2-3). Chân phước Phaolô VI cũng phát biểu theo ý hướng đó vào lúc bế mạc Công đồng: “Chúng ta muốn nhấn mạnh hơn nữa rằng, nét đặc trưng của Công đồng này chính là đức ái…câu chuyện về người Samaria nhân hậu là mẫu gương và là chuẩn mực cho linh đạo của Công đồng… Công đồng đã mang lại cho con người thời nay nhiều thiện cảm và ngưỡng mộ. Những sai lầm chắc chắn phải bị loại bỏ, vì đức ái cũng như sự thật đều đòi hỏi điều ấy, nhưng đối với con người thì chỉ có khuyên bảo, với thái độ tôn trọng và yêu thương. Thay vì gây nên đau lòng bằng việc xác định bệnh trạng, cần phải tạo niềm an ủi bằng việc mang lại những phương dược chữa lành; Công đồng muốn nói với con người đương đại, không phải những lời tiên đoán thảm khốc, nhưng là các sứ điệp mang đến hy vọng và tin tưởng… Một điểm khác cần phải lưu tâm, đó là tất cả giáo huấn phong phú này đều được qui về một hướng duy nhất, đó là phục vụ con người, trong mọi tình huống của cuộc sống, trong từng nhược điểm và trong mọi nhu cầu” (Diễn từ bế mạc Công đồng Vaticanô II, 7/12/1965).[42]
Thánh Kinh nhấn mạnh người nghèo (πτωχος) luôn có một vị trí đặc biệt trong Giao ước. “Nếu giữa anh (em), trong một thành nào của anh (em), trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), có một người anh (em) nghèo, thì anh (em) đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng; nhưng phải mở rộng tay, và cho họ vay mượn tất cả những gì họ thiếu” (Đnl 15,7-8). Như thế, Cựu ước không chỉ là trường dạy cho con người biết để ý lưu tâm đến người nghèo, mà còn cho thấy lòng nhân từ quảng đại của Thiên Chúa và cách đối nhân xử thế giữa người với người. Bởi khuôn mặt của người nghèo phản ánh dung nhan của Chúa Kitô - người Con chí ái của Thiên Chúa: “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Do đó, có thể nói, người nghèo là những người ưu tiên được đón nhận Tin Mừng và là đối tượng của lòng thương xót.
Tin Mừng Thứ Ba mang dấu ấn thần học về người nghèo và về sự khó nghèo.[43] Gia đình Nazareth cũng thuộc vào những người nghèo của Israel. Các trình thuật Thánh Kinh nhấn mạnh đến người nghèo và cho các độc giả thấy nơi người nghèo, không mất niềm hy vọng: “Người túng thiếu không mãi bị bỏ quên, kẻ nghèo khổ chẳng tuyệt vọng bao giờ” (Tv 9,19). Nơi hang Bêlem, chỉ có các mục đồng từ những cánh đồng lân cận tìm đến vây quanh, chúc tụng. Họ là những người đầu tiên được diện kiến Hài Nhi Giêsu; “họ thuộc về những kẻ nghèo hèn, những tâm hồn thật đơn sơ được Chúa Giêsu ca tụng, vì họ dành riêng để tiếp cận Thiên Chúa (x. Lc 10,21-22). Họ đại diện cho những kẻ nghèo hèn của Israel, những người nghèo nói cách chung: những con người nhận được sự ưu ái của tình yêu Thiên Chúa.”[44] Nơi hang Bêlem, chỉ có các đạo sĩ từ phương Đông lên đường hành hương theo sao lạ tìm đến. Rồi trong suốt thời gian rao giảng công khai, những người cùng bước đi với Con Thiên Chúa cũng là những hạng người nghèo. Quả thật, người nghèo là đối tượng của lòng thương xót của Thiên Chúa. Họ cố gắng vượt qua mọi rào cản của những sự khác biệt về văn hóa, chủng tộc, màu da, tôn giáo,…vì tất cả họ đều là anh chị em với nhau, con cùng một Cha trên trời và cùng người thầy là Chúa Kitô (x. Mt 23,8-10).
3.1.3. Người nghèo theo giáo huấn của Giáo Hội
Người nghèo là trọng tâm của Giáo Hội, là hình ảnh của Chúa Kitô (x. Mt 25,40). Sự bận tâm của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng được nói đến trong Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu là các mục tử liệu cách tìm ra phương thế mới và hữu hiệu, làm thế nào để mỗi người, cách riêng người nghèo sẽ và luôn cảm thấy mình thật sự là một thành phần của giáo xứ và của toàn thể Dân Chúa.[45] Thông điệp Quan Tâm đến Vấn Đề Xã Hội (Sollicitudo rei Socialis, 30/12/1987) nêu rõ: “Sự chọn lựa hay tình yêu thương dành cho những người nghèo là một chọn lựa, hay một hình thức đặc biệt dành ưu tiên trong việc thực thi đức ái Kitô giáo mà tất cả truyền thống Giáo Hội đã minh chứng. Điều đó liên quan tới đời sống của mỗi Kitô hữu, với tư cách là người bắt chước đời sống của Chúa Kitô, nhưng cũng được áp dụng cho những trách nhiệm xã hội của chúng ta và như vậy cho cách chúng ta sống, cho những quyết định chúng ta đưa ra một cách đúng đắn về vấn đề tư hữu và sử dụng của cải.”[46]
Thành ngữ “ưu tiên cho những người nghèo” đã xuất hiện trong khuôn khổ các đại hội đồng của các Giám mục Châu Mỹ Latinh, với một lục địa của những sự bất bình đẳng, bạo lực, bất công, độc tài,… Công đồng Vaticanô II ngay từ số đầu tiên của Hiến chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes, 7/12/1965) đã dành sự quan tâm đối với người nghèo: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ.”[47] Bởi thế, nếu không quan tâm đến người nghèo, Giáo Hội dường như đi ngược lại với sứ mạng của mình. Trong lời nguyện phong chức Phó tế, Giám mục đã nhấn mạnh đến vai trò phục vụ cộng đoàn của phó tế và đọc rằng: “Xin cho các thầy được dồi dào các nhân đức Phúc Âm: chân thành yêu thương, lo cho người bệnh và người nghèo…” Nếu Giáo Hội cho thấy “sự ưu tiên dành cho người nghèo và những kẻ không có tiếng nói là bởi vì Chúa đã đồng hóa mình với họ một cách đặc biệt” (x. Mt 25,40).[48] “Nơi họ, cộng đoàn Kitô hữu gặp được khuôn mặt và xác thịt Chúa Kitô, Đấng vốn giàu có nhưng đã trở nên nghèo khó vì chúng ta, để chúng ta có thể trở nên giàu có nhờ sự khó nghèo của Người (x. 2Cr 8,9). Việc ưu tiên lựa chọn người nghèo là điều tiềm ẩn trong đức tin Kitô học, là một phạm trù chủ yếu thần học hơn là một phạm trù xã hội học, chính trị hay triết học. Người nghèo có sự hiểu biết trực tiếp về Chúa Kitô đau khổ (x. EG 198), điều này làm cho họ trở thành những sứ giả của ơn cứu độ đón nhận như một quà tặng, và là những chứng nhân cho niềm vui Tin Mừng.”[49]
Đức Thánh Cha Phanxicô đã có sáng kiến khi thiết lập Ngày Thế giới Người nghèo lần đầu tiên vào năm 2017 và ngài ấn định cử hành hằng năm vào Chúa nhật 33 Thường niên. Ngài đã chọn tên hiệu là Phanxicô, theo tên thánh Phanxicô người nghèo thành Assisi, với nguồn cảm hứng từ người bạn của ngài là cố Hồng Y người Brazil Claudio Hummes[50] và quả thật Đức Phanxicô thực sự là Giáo Hoàng của lòng thương xót, vị mục tử của người nghèo, nghèo từ trang phục, phương tiện đến lời nói, cử chỉ và hành động. Qua các sứ điệp gửi đến cho Dân Chúa, ngài mời gọi các tín hữu hướng về người nghèo và trở thành bạn của người nghèo. Trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Mỗi cá nhân và mỗi cộng đồng Kitô hữu được kêu gọi trở thành một dụng cụ của Thiên Chúa cho việc giải phóng và thăng tiến người nghèo, và giúp họ là thành viên đầy đủ của xã hội” (số 187). Đức Thánh Cha Lêô XIV cũng tiếp bước con đường của Đức Phanxicô: là trở nên mục tử của hòa bình, ưu tư và đồng hành với người nghèo và luôn đặt Chúa Kitô là trung tâm.
Người nghèo còn là bí tích sống động của Chúa Kitô. Có một mối tương quan gắn kết giữa phẩm giá con người và các bí tích. Trong Tin Mừng, có lần Chúa Giêsu đã nói: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra” (Mt 4,4). Thánh Thể là nguồn suối, chóp đỉnh sứ vụ của Giáo Hội và đời sống Kitô hữu: “Một Giáo Hội thật sự sống Thánh Thể là một Giáo Hội truyền giáo.”[51] Điều này đã được Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày trong Tông huấn Niềm Vui Tin Mừng như sau: “Bí tích Thánh Thể, tuy là sự sung mãn của đời sống bí tích, nhưng không phải là một phần thưởng cho người hoàn thiện, mà là một phương thuốc và lương thực cho người yếu đuối” (số 47), nghĩa là Bí tích Thánh Thể phó thác chúng ta cho người nghèo, người đói khát.
3.2. Đức ái - Luật tối thượng
“Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Cứ dấu này, mọi người sẽ nhận ra anh em là môn đệ Thầy, là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13,34-35). Đức ái hay tình yêu là chìa khóa, là thẻ căn cước và là luật sống tối thượng cho tất cả các tín hữu, cách riêng với các hoạt động truyền giáo của Giáo Hội.
Trong Thư Chung năm 2022, số 5c và 5d, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã nhấn mạnh: “Sự hiệp thông trong Giáo Hội không chỉ được thể hiện qua phụng vụ, mà còn qua tình tương thân tương ái, thành tâm lắng nghe nhau trong cộng đoàn, và qua những nghĩa cử bác ái giữa những người đồng đạo cũng như đối với anh chị em không cùng niềm tin. Ngày nay, với những thành tựu khoa học, cuộc sống vật chất được cải thiện rõ rệt, nhưng tình người lại có nguy cơ giảm sút. Chúng ta cần quan tâm đến người cao tuổi, người mắc ngăn trở hôn phối hoặc gặp khó khăn trong hôn nhân, người khuyết tật, người nghèo khổ, dân tộc thiểu số, anh chi em xa quê và những nạn nhân thiên tai. Mối quan tâm này cần phải được thực hiện cách cụ thể và mang tính lâu dài, nhằm nâng đỡ những người bất hạnh. Đức bác ái là cốt lõi giáo huấn của Chúa Giêsu. Người dạy chúng ta: khi chúng ta giúp đỡ người nghèo khổ là giúp đỡ chính Chúa (x. Mt 25,31-46). Trong xã hội hôm nay, các phương tiện truyền rất đa dạng và ngày càng hiện đại. Người tín hữu cần tiếp cận và sử dụng các phương tiện truyền thông để hòa nhập với thế giới hiện đại, trau dồi kiến thức và học hỏi Lời Chúa. Tuy vậy, có không ít những hậu quả tiêu cực từ truyền thông, nên cũng cần thận trọng trong việc đón nhận và chuyển tải thông tin. Hiện nay, một số trang mạng mang danh Công giáo, nhưng lại đăng tải những nội dung thiếu kiểm chứng, đặt những tựa đề giật gân, với mục đích thu hút sự chú ý của độc giả. Những thông tin sai lạc này làm tổn hại nghiêm trọng hình ảnh của Giáo Hội và gây hoang mang nơi người tín hữu. Những người làm công tác truyền thông cần lưu ý đến lương tâm và đạo đức, theo nguyên tắc: loan báo Sự Thật trong Đức Ái. Truyền thông phải là phương tiện kết nối con người trong tình thân nghĩa, chứ không phải để gieo rắc hoang mang chia rẽ, thậm chí gây thù hận và đẩy người khác đến đường cùng.”
3.2.1. Đức ái - dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi cộng đoàn giáo xứ
Trong Thông điệp Ánh Sáng Đức Tin (5/7/2013), Thông điệp đầu tiên của Đức Thánh Cha Phanxicô kể từ khi được chọn làm Giáo Hoàng (13/3/2013), ngài đã viết: “Những bàn tay của đức tin giơ lên trời, như thể chúng ta đang xây dựng một lâu đài đức ái trong các mối tương quan mà trong đó tình yêu Thiên Chúa làm nền tảng” (số 51). Một cộng đoàn giáo xứ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, nghĩa là cộng đoàn đó có khả năng tìm thấy Thiên Chúa, khi họ nhận ra Chúa nơi người khác, đặc biệt là nơi những người nghèo (x. Mt 25). Cộng đoàn giáo xứ chỉ thực sự trở nên sống động khi thực thi việc bác ái trong kinh Thương Người Có Mười Bốn Mối, không chỉ về phần xác (cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, cho khách đỗ nhà, chuộc kẻ cùng tôi và chôn xác kẻ chết) mà còn bác ái về phần hồn (lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha thứ cho kẻ khinh dể ta, nhịn nhục kẻ xúc phạm đến ta và cầu nguyện cho kẻ sống cũng như kẻ chết). Điều này cũng nằm trong những chỉ dẫn thực hành bác ái trong Năm Thánh 2025.
Trong Tông thư Khởi Đầu Thiên Niên Kỷ Mới, Thánh Gioan Phaolô II đã viết: “Khởi sự với sự hiệp thông nội bộ Giáo Hội, đức ái tự bản tính khai mở một phục vụ phổ quát; đức ái linh hứng trong chúng ta một sự dấn thân yêu mọi người cách thực tế và cụ thể. Đó cũng là một phương tiện phải đánh dấu rõ ràng cuộc sống Kitô hữu, toàn bộ hoạt động và chương trình mục vụ của Giáo Hội. Thế kỷ và ngàn năm đang bắt đầu bây giờ cần phải thấy, và hy vọng còn thấy rõ hơn, cộng đồng Kitô hữu, phải cống hiến tới mức nào, để có thể đến với những kẻ nghèo nhất qua đức ái. Nếu chúng ta đã thật sự khởi hành từ việc chiêm ngắm Chúa Kitô, chúng ta phải học thấy Người cách riêng trong gương mặt của những kẻ Người muốn đồng hóa mình với họ: “Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm nom; Ta ngồi tù, các ngươi đã đến thăm” (Mt 25,35-37)… Những lời rõ ràng của Tin Mừng nhắc nhở chúng ta, Chúa Kitô hiện diện cách riêng trong kẻ nghèo, và điều này đòi buộc Giáo Hội có sự lựa chọn hơn đối với kẻ nghèo. Sự lựa chọn này là một bằng chứng cho bản tính của tình yêu Thiên Chúa, của sự quan phòng và lòng thương xót của Người, và bằng cách nào đó lịch sử còn đầy dẫy những hạt giống Nước Chúa mà chính Chúa Giêsu đã gieo đang lúc Người còn sống dưới thế này mỗi lần Người trả lời cho những ai đến với Người với những nhu cầu thiêng liêng vật chất của họ.”[52]
Tuy nhiên, đã có không ít người ngộ nhận rằng việc lựa chọn ưu tiên cho kẻ nghèo là nghĩa vụ, là trách nhiệm của một số người, nhưng trên thực tế, đó là sứ mạng của toàn thể Giáo Hội.[53] Vì thế, đức ái cần phải được biểu lộ rõ nét trong đời sống cộng đoàn giáo xứ.
3.2.2. Đức ái - nguồn động lực truyền giáo của cộng đoàn giáo xứ
“Chính tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng tôi” (2Cr 5,14). Cốt lõi của sứ vụ truyền giáo là đức ái. Ngay từ những lời đầu tiên của sứ điệp truyền giáo năm 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh: “Một khi đã trải nghiệm sức mạnh tình thương của Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện từ phụ của Người trong đời sống cá nhân và cộng đoàn của chúng ta, chúng ta không thể không công bố và chia sẻ điều chúng ta đã thấy và đã nghe.”[54]
Đức ái chính là nhịp cầu gắn kết các Kitô hữu với những người anh chị em của mình, vượt qua những khác biệt và kỳ thị tôn giáo qua các cuộc gặp gỡ, từ thiện, tự nguyện... Đức ái được xem như linh hồn của truyền giáo, đem đạo vào đời.[55] Nhờ đó, Giáo Hội trở nên dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hiệp nhất với gia đình nhân loại.[56] Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh đức ái là nền tảng, là điều kiện thiết yếu để đời sống Kitô hữu nên hoàn thiện hơn: “Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn thân vào đời sống hằng ngày của dân chúng bằng lời nói và hành động; cộng đoàn ấy vượt qua các khoảng cách, sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau khổ của Chúa Kitô nơi người khác. Như vậy, các người loan báo Tin Mừng mang lấy ‘mùi của đàn chiên’ và đàn chiên sẵn sàng nghe tiếng của họ. Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường, bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu. Cộng đoàn này cũng quen với việc kiên nhẫn chờ đợi và sự chịu đựng tông đồ. Loan báo Tin Mừng phần lớn hệ tại sự kiên nhẫn và không quan tâm tới áp lực của thời gian.”[57] Và chỉ có những ai cảm thấy hạnh phúc khi tìm lợi ích cho người khác, mong muốn điều hạnh phúc cho họ, thì người đó mới có thể là người truyền giáo thực sự.[58] Họ ý thức mình là những cộng sự viên của Thiên Chúa, được mời gọi trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa nơi trần gian qua việc thi hành các chức năng tư tế, vương đế và ngôn sứ mà Chúa đã trao ban.[59]
3.2.3. Chúa Giêsu - khuôn mặt của đức ái
Chúa Giêsu là người loan báo Tin Mừng tiên khởi và vĩ đại nhất.[60] Có thể nói, lời rao giảng đầu tiên của Ngài, theo Tin Mừng Luca, đó là loan báo cho kẻ nghèo hèn. Cụ thể, khi trở về thăm quê hương Nazareth, vào trong hội đường, Chúa Giêsu đọc ngay đoạn sách Isaia: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn…” (Lc 4,18). Chúa Giêsu là “Đấng đã trở nên nghèo khó và luôn luôn gần gũi với những người nghèo và những người bị hất hủi, là cơ sở cho mối quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển toàn diện của các thành viên bị lãng quên nhất xã hội”[61] bởi Ngài đến trong trần gian chẳng phải để được kẻ hầu người hạ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc muôn người (x. Mt 20,28). Vì muốn trở nên nghèo khó và làm bạn với kẻ nghèo, Ngài đã thực hiện cuộc hành hương từ trời cao đến trần gian, từ nơi Thiên Chúa đến chỗ con người (x. Pl 2,6-11).
Trong buổi tiếp kiến chung vào sáng thứ tư, ngày 19/8/2020, trong loạt bài suy tư về đại dịch Covid-19, với chủ đề “Chữa lành thế giới”, ở bài suy tư thứ ba “Chọn lựa ưu tiên dành cho người nghèo và đức ái”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh: “Đây không phải là một lựa chọn chính trị; cũng không phải là lựa chọn lý tưởng, hay lựa chọn đảng phái. Lựa chọn ưu tiên cho người nghèo nằm ở trung tâm của Tin Mừng. Và người đầu tiên thực hiện lựa chọn này là chính Chúa Giêsu; chúng ta đã nghe về điều này trong đoạn thư gửi các tín hữu Côrintô (x. 2Cr 8,9). Chính Ngài, Đấng giàu có, đã trở nên nghèo để làm cho chúng ta trở nên giàu có. Ngài làm vì mỗi người chúng ta và do đó, ở trung tâm của Tin Mừng, ở trung tâm lời rao giảng của Chúa Giêsu, có chọn lựa này.”[62]
Chính đời sống và giáo huấn của Chúa Giêsu dạy cho con người trong mọi thời đại phải ưu tiên lựa chọn cho người nghèo vì Nước Thiên Chúa thuộc về người nghèo: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó vì Nước Thiên Chúa là của anh em” (Lc 6,20). Thánh Kinh cho chúng ta thấy Chúa Giêsu nghèo từ khi sinh ra với hình ảnh của “trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” (x. Lc 2,7.12) nên Ngài đồng cảm với những ai có hoàn cảnh giống như Ngài. Ngài không có chỗ trong lòng nhân loại (x. Ga 1,10-11); bị xua đuổi ngay giữa cái lạnh của đêm đông; sống ẩn dật nơi làng quê Nazareth nghèo hèn (x. Lc 2,51). Ngài xuất thân từ gia đình nghèo với người cha nuôi làm nghề thợ mộc (x. Mt 13,55) và người mẹ là bà Maria với “phận nữ tì hèn mọn…” (Lc 1,48) và “kẻ đói nghèo…” (Lc 1,53). Chúa Giêsu nên nghèo khi trở thành kẻ tội lỗi đứng chung với hàng ngũ hối nhân bên bờ sông Giođan; hành hương từ làng này sang làng khác nhưng lại không có ngôi nhà cố định, chẳng có nơi gối đầu (x. Mt 8,20; Lc 9,58); sống lưu động, sinh ra bên ngoài thành và chịu đóng đinh bên ngoài thành (x. Dt 13,12), nghèo đến nỗi khi chết chẳng được tấm che mình; và cuối cùng nghèo đến nỗi được an táng trong ngôi mộ mượn tạm của người khác (x. Ga 19,41). Quả thật, Chúa Giêsu, người hành hương, là mẫu gương thực sự của đức ái.
KẾT LUẬN
Trên đây bài viết chỉ nói lên một vài nét sơ lược về chiều kích cộng đoàn của giáo xứ qua Huấn thị “Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ loan báo Tin Mừng của Hội Thánh”. Giáo xứ là Giáo Hội địa phương, là gia đình của Thiên Chúa và là ‘cộng đoàn của các cộng đoàn’, được thể hiện qua ba chiều kích: hiệp thông, tham gia và sứ vụ. Đó cũng chính là chủ đề của Thượng Hội đồng Giám mục thế giới lần thứ 16, “vì một Giáo Hội hiệp hành.”
Là cộng đoàn nuôi dưỡng đức tin, giáo xứ được mời gọi sống hiệp thông như các Kitô hữu thuở ban đầu: một cộng đoàn hiệp thông Lời Chúa một lòng một trí với nhau trong cầu nguyện (x. Cv 4,32), một cộng đoàn phụng vụ cử hành hoặc tham dự cách sốt sắng và linh động.
Giáo xứ, với tư cách là cộng đoàn tham gia, có vai trò quan trọng trong đời sống đức tin và sứ vụ của Giáo Hội. Không chỉ là nơi cử hành phụng vụ, giáo xứ còn là cộng đoàn sống đạo. Trong cộng đoàn, không ai là người bị loại trừ. Mọi người đều có trách nhiệm xây dựng giáo xứ theo khả năng của mình và tất cả đều có quyền và bổn phận như nhau. Giáo xứ là nơi thể hiện tình yêu thương, bác ái và mang lại niềm hy vọng để rồi “niềm hy vọng không làm thất vọng” (Rm 5,5). Các cuộc hành hương đến các Đền Thánh qua các cử hành phụng vụ giúp cộng đoàn giáo xứ gặp gỡ Thiên Chúa, gặp gỡ anh chị em và tìm thấy chính mình.
Là cộng đoàn của sứ vụ, giáo xứ có bổn phận truyền giáo, mà điểm nhấn là những người nghèo, bởi “tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi” (AG, số 2), cùng bước đi trong niềm hy vọng và sinh nhiều hoa trái. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh tầm quan trọng của cộng đoàn giáo xứ, các cộng đoàn cơ bản qua Tông huấn Giáo Hội tại Á Châu như sau: “Trong bối cảnh ấy và dựa trên kinh nghiệm mục vụ của mình, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng (Giám mục Châu Á) nhấn mạnh tới giá trị của các Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản như một phương thế hữu hiệu để đẩy mạnh sự hiệp thông cộng tác trong các giáo xứ và giáo phận, và như một lực lượng thật sự cho công cuộc Phúc Âm hóa. Những tập thể nhỏ bé này sẽ giúp các tín hữu sống thành những cộng đoàn đức tin, cầu nguyện và yêu thương như các Kitô hữu đầu tiên (x. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các tập thể này còn giúp các đoàn viên sống Tin Mừng trong tinh thần yêu thương huynh đệ và phục vụ, từ đó trở thành điểm khởi hành vững chắc cho một xã hội mới, biểu hiện một nền văn minh tình thương” (số 25).
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Tại các giáo xứ, sự liên đới và sự tham gia giữa các đoàn thể trong giáo xứ là điều cần thiết. Vậy đâu là những khó khăn, những thách đố để xây dựng một cộng đoàn giáo xứ hiệp nhất?
2. “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành là người được sai đi” (AG, số 2). Truyền giáo là trách nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo Hội, cách riêng với cộng đoàn giáo xứ. Làm cách nào để vừa nuôi dưỡng sự hiệp thông truyền giáo trong gia đình, trong cộng đoàn giáo xứ vừa để tiếp cận và phục vụ những người ngoài cộng đoàn giáo xứ nhưng đang sinh sống trong địa bàn giáo xứ mình (lương dân, những người nghèo, già cả, bệnh tật)?
Nguồn: gpquinhon.net
__________
[1] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 7.
[2] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 27.
[3] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 28; BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 29.
[4] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 28; BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 27.
[5] CĐ. VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Tông Đồ Giáo Dân (Apostolicam Actuositatem, 18/11/1965), số 10.
[6] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 28.
[7] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Christifideles Laici, số 26.
[8] CĐ. VATICANÔ II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 11.
[9] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Inuente, số 42.
[10] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 28.
[11] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Thư Desiderio Desideravi, số 30.
[12] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Thư Desiderio Desideravi, số 4.
[13] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Christifideles Laici, số 26.
[14] CĐ. VATICANÔ II, Hiến Chế Sacrosanctum Concilium, số 26-27.
[15] https://www.tonggiaophanhanoi.org/thanh-the-bi-tich-cua-su-hiep-nhat/, truy cập ngày 01/5/2011.
[16] CĐ. VATICANÔ II, Hiến Chế Sacrosanctum Concilium, số 26.
[17] CĐ. VATICANÔ II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 1.
[18] CĐ. VATICANÔ II, Hiến Chế Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay (Gaudium et Spes, 7/12/1965), số 77.
[19] x. CĐ. VATICANÔ II, Sắc Lệnh Apostolicam Actuositatem, số 2.
[20] x. ĐGH. PHANXICÔ, Sắc Chỉ Spes non Confundit (9/5/2024), số 4.24.
[21] ĐGH. BÊNÊĐICTÔ XVI, Thông Điệp Cariatas in Veritate (7/7/2009), số 19. (Thông điệp thứ 1: Deus Caritas est, ngày 25/12/2005; Thông điệp thứ 2: Spe Salvi, ngày 30/11/2007).
[22] ĐGH. PHANXICÔ, Sắc Chỉ Spes non Confundit (9/5/2024), số 1.
[23] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 31.
[24] ĐGH. PHANXICÔ, Sắc Chỉ Spes non Confundit, số 6.
[25] Lm. GIUSE PHẠM ĐÌNH NGỌC, Ý Nghĩa và Lịch Sử của Hành Hương: Tài Liệu Giúp Hành Hương Hiệu Quả (Nxb. Đồng Nai, 2023), tr. 14-15.
[26] ĐGH. PHANXICÔ, Sắc Chỉ Spes non Confundit (9/5/2024), số 5.
[27] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Sắc Misericordiae Vultus (11/4/2015), số 22.
[28] ĐGH. PHANXICÔ, Sắc Chỉ Spes non Confundit, số 23.
[29] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Sắc Misericordiae Vultus, số 22.
[30] ĐGH. PHANXICÔ, Thông Điệp Fratelli Tutti, số 87.
[31] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Christifideles Laici, số 27.
[32] ĐGH. PHANXICÔ, Thông Điệp Fratelli Tutti, số 276.
[33] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 29-30.
[34] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Inuente, số 53.
[35] CĐ. VATICANÔ II, Sắc Lệnh Presbyterorum Ordinis, số 5.
[36] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 29.
[37] x. ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 48.
[38] BỘ GIÁO SĨ, Huấn Thị Cải Tổ Mục Vụ Cộng Đoàn Giáo Xứ để Phục Vụ Sứ Mạng Loan Báo Tin Mừng của Hội Thánh, số 32.
[39] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 199.
[40] x. ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 82.
[41] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Vita Consecrata, số 82.
[42] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Sắc Misericordiae Vultus, số 4.
[43] ĐGH. BÊNÊĐICTÔ XVI, ĐỨC GIÊSU THÀNH NAZARETH, tập III, Lm. Aug. Nguyễn Văn Trinh biên dịch (Hà Nội: Nxb. Tôn Giáo, 2013), tr. 116.
[44] ĐGH. BÊNÊĐICTÔ XVI, ĐỨC GIÊSU THÀNH NAZARETH, tập III, tr. 103.
[45] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Ecclesia in Asia, số 25.
[46] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Sollicitudo rei Socialis, số 42.
[47] CĐ. VATICANÔ II, Hiến Chế Gaudium et Spes, số 1.
[48] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Huấn Ecclesia in Asia, số 34.
[49] THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THƯỜNG KỲ XVI, Văn Kiện Chung Kết 26/10/2024, số 19.
[50] Đức Hồng Y Claudio Hummes qua đời vào ngày 4/7/2022, 87 tuổi.
[51] ĐGH. BÊNÊĐICTÔ XVI, Tông Huấn Sacramentum Caritatis (22/2/2007), số 84.
[52] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Tông Thư Novo Millennio Inuente, số 49.
[53] ĐGH. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Sollicitudo rei Socialis, số 42.
[54] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-10/su-diep-ngay-the-gioi-truyen-giao-nam-2021-dtc-phanxico.html, truy cập ngày 5/10/2021.
[55] x. ĐGH. BÊNÊĐICTÔ, Sứ Điệp Truyền Giáo 2006.
[56] CĐ. VATICANÔ II, Hiến Chế Lumen Gentium, số 1.
[57] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 24.
[58] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 272.
[59] CĐ. VATICANÔ II, Sắc Lệnh về Hoạt Động Truyền Giáo của Giáo Hội (Ad Gentes, 7/12/1965), số 15.
[60] ĐGH. PHAOLÔ VI, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng (Evangelii Nuntiandi, 8/12/1975), số 7; ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 12.
[61] ĐGH. PHANXICÔ, Tông Huấn Evangelii Gaudium, số 186.
[62] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2020-08/tiep-kien-chung-dai-dich-chon-lua-uu-tien-vi-nguoi-ngheo-duc-ai.html. Cập nhật ngày 6/1/2021.
Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - hdgmvietnam.com