Trổi vượt ở chỗ con người ta được thông chia lý trí, ý chí và tự do với Thiên Chúa, đặc biệt hơn hết là để chúng ta có đời sống sung mãn trong mối tương quan mật thiết thân tình với Đấng Tạo hóa.
Tuy nhiên con người không biết trân trọng những đặc ân ấy, đã quay lưng lại với Thiên Chúa, đã phạm tội bất phục tùng người. Khi con người đầu tiên phạm tội, con người đã bị xáo trộn với trong tương quan với Thiên Chúa, và tương quan giữa người với người cũng bị đảo lộn.
Dù cho con người bất trung, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương qua lời hứa ban Ơn Cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô. Nhưng nhìn lại lịch sử nhân loại và cho đến ngày hôm nay, ta thấy mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân vẫn có những bất trật tự khởi đi từ việc con người chúng ta với bản tính yếu đuối bất toàn và đầy giới hạn.
Với thứ Tư lễ tro, mỗi người tiến lên để được xức tro lên đầu, cách nào đó mời gọi mỗi người chúng ta nhận thức lại thân phấn yếu đuối mỏng dòn và bất toàn của mình, để rồi mỗi người chúng ta đi vào một tiến trình sám hối một cách thực sự khởi đi từ chính cõi lòng của mình như lời ngôn sứ Giôen: “Hãy xé tâm hồn, chớ đừng xé áo các ngươi” [1](Ge 2, 13). Hay nói cách khác, mùa Chay cũng là chúng ta thực hiện một tiến trình tái lập mối tương quan với Thiên Chúa và với tha nhân, như ngôn ngữ của Thánh Phaolô: “anh em hãy làm hoà cùng Thiên Chúa. Ðấng không hề biết đến tội lỗi thì Thiên Chúa đã làm Người thành thân tội vì chúng ta, để trong Người, chúng ta được trở nên sự công chính của Thiên Chúa.” (2 Cr 5, 20). Thành quả của việc hòa giải với Thiên Chúa nhờ Đức Ki-tô mặc khải rằng ngày cứu độ đã đến. Thánh Phao-lô trích dẫn sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gởi cho những người lưu đày ở Ba-by-lon để loan báo cho họ giờ giải thoát sắp đến gần: “Ta sẽ nhận lời ngươi vào thời ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ” (Is 49, 8).[2]
Chúng ta được mời gọi tái lập lại mối tương quan với Thiên Chúa một cách tích cực trong mùa Chay thánh này, để khởi đi trong mối tương quan với Thiên Chúa, ta lại tiếp tục sống cuộc sống sung mãn, tiếp tục đón nhận những ân sủng mà Thiên Chúa ban. Một khi ta sống thân mật trong mối tương giao với Thiên Chúa thì ta cũng sống mỗi tương quan thân tình với anh chị em của mình bằng những ân huệ mà chúng ta đón nhận từ nơi cung lòng Thiên Chúa.
Qua bài Tin mừng thứ tư lễ tro, Đức Giêsu cho chúng ta thấy tiến trình lập lại mối tương quan được thực hiện một cách cụ thể qua một thái độ, một cung cách sống với ba việc làm đó là cầu nguyện[3] – thể hiện tương giao với Thiên Chúa, ăn chay[4] – thể hiện tương giao với chính mình, và làm việc lành phúc đức[5] – thể hiện tương giao với tha nhân.
Với việc cầu nguyện, ta được mời gọi sống hiệp thông với Thiên Chúa qua việc chúc tụng tạ ơn vì những ơn lành mà lý trí qua môi miệng con người chẳng thể nào kể cho xiết. Dù con người tội lỗi thể nào, Thiên Chúa không bao giờ từ bỏ chúng ta luôn thông tin và chờ đợi chúng ta. Vì thế, cầu nguyện cũng là cách để đốt lên lòng trông cậy. Khi cầu nguyện, ta kín múc sức sống nơi Chúa và liên kết tình tương giao với Ngài. Đàng khác, đời sống cầu nguyện phải được khởi đi từ nơi linh thiêng nhất trong con người đó là cõi lòng mình trong sự khiêm nhượng thẳm sâu cung kính trước Thiên Chúa là Đấng tạo dựng lên đất trời.
Với việc bác ái, chúng ta cũng nên chia sẻ cho họ tình cảm, thời gian và có thể là cả trao ban cả của cải vật chất qua tâm thế của người truyền rao Tin mừng. Sẻ chia cho người khác bởi đơn giản họ cũng là những con người trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Khi biết chia sẻ qua thái độ chân thành và đầy yêu thương, chúng ta cũng làm cho tâm hồn mình trở nên thư thái bình an. Việc sẻ chia này như một lời nhắc nhở về bổn phận phải sống cho những người kém may mắn hơn mình, không đơn thuần chỉ là việc bố thí bát gạo, gói mỳ… như những nhà họat động xã hội cho bằng là sự hiện diện, sự đồng cảm qua việc sống cùng và sống với những anh chị em ấy. Đơn giản, chúng ta là con một Cha và anh em một nhà.
Qua việc ăn chay, chúng ta biết hi sinh hãm mình để tiết kiệm chế những đam mê những dục vọng đang chi phối. Nhưng khó khăn là khi nói đến tinh thần phải có khi ăn chay. Khổ hạnh thuyết mà người ta thường khoe khoang đều lố bịch và mâu thuẫn, vì nó biến lòng thống hối thành tội lỗi: con người giả bộ sầu khổ ngoài mặt, còn sự thật. Nhiều khi cúng ta cũng rơi vào trạng thái ấy làm bộ để người ta tin rằng họ ăn chay. Vẻ thống hối bên ngoài đầy nguy hiểm, vì nó trở nên quá lộ liễu che đậy dục vọng mình cách ích kỷ, dưới chiêu bài luân lý và tôn giáo. Đặc tính của mặt nạ là giả, không gì xấu xa hơn mặt nạ về lòng sốt sắng, vì nó làm cho người khác chê cười và hơn nữa. Tuy nhiên, chúng ta cũng không được rơi vào một thái cực khác, đó là chối bỏ tất cả mọi hành động thống hối bên ngoài. Không thể vì thấy một vài lạm dụng mà kết án hành động thống hối. Người ta vẫn ăn chay, nhưng với một ý hướng trong sạch. Người ta sẽ ăn chay để làm vinh danh Chúa, không phải để tôn vinh con người.[6] Kẻ khắc khổ giả tạo không phải là một người từ bỏ, nhưng là một người tham vọng. Hiểu như vậy ta hãy ý thức việc ăn chay không hệ tại ở việc ăn cái gì, ăn như thế nào mà hệ tại ở việc khởi đi từ đời sống của một người tay sạch lòng thanh.
Bước vào mùa chay cũng là lúc ta tái khởi lập lại tiến trình làm hòa với Thiên Chúa làm hòa với anh Em. Cách nào đó mùa chay với 40 ngày làm mới lại để cuộc sống của chúng ta tràn ngập niềm hoan hỷ. Xin Chúa ban cho mỗi người biết tận dụng và biết nhận thức ý nghĩa cao đẹp của lời mời gọi sống tâm tình sám hối trong mùa chay để trong mùa Chay trở nên mùa ân phúc – Mùa tái khám phá lại mối thân tình với Chúa, với người và với mình.
[1] Ngôn sứ kêu mời hãy hết lòng trở về với Chúa kèm theo những cử chỉ sám hối: ăn chay, khóc lóc, van nài thống thiết, xé áo, những cử chỉ này gợi ra những nghi thức tang chế và diễn tả những tâm tình buồn phiền của con người trước tội lỗi của mình; ăn chay hổ trợ lời cầu nguyện và cũng diễn tả thái độ khiêm hạ. Nhưng ông không nhấn mạnh những cử chỉ này. Điều cốt thiết là “thay lòng đổi dạ”: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng”. Hết lòng trở về với Thiên Chúa không phải thực hiện trong nỗi xao xuyến nhưng trong niềm tin tưởng. Thiên Chúa tỏ mình ra “nhân hậu và từ bi, chậm giận và giàu tình thương” như Ngài đã tự định nghĩa về mình trước ông Mô-sê (Xh 34: 6). Với lời cầu nguyện chân thành, “biết đâu Thiên Chúa chẳng nghĩ lại mà hối tiếc vì đã giáng họa”.
[2] Thánh nhân đặt lời trích dẫn này vào thời hiện tại: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ”, bởi vì sấm ngôn đã được ứng nghiệm. Diễn ngữ “ngày Ta cứu độ” mang ý nghĩa kinh thánh: “thời đại”. Thời đại này được hiểu giữa biến cố Phục Sinh và ngày Quang Lâm của Đức Giê-su, tức thời chung cuộc, thời mà cuộc hoán cải của muôn dân sẽ được thực hiện. Nhưng đối với mỗi người Ki-tô hữu, cuộc hoán cải không được trì hoản: chính bây giờ là lúc thuận tiện, bây giờ là lúc phải tận dụng thời gian ngắn ngũi này để thánh hóa bản thân mình.
[3] Đối với việc cầu nguyện, Đức Giê-su căn dặn cũng theo một cách thức như vậy: “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh em”. Đức Giê-su đã nêu gương. Các tác giả Tin Mừng, đặc biệt thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta rằng Đức Giê-su thường tách riêng một mình để cầu nguyện “trong nơi vắng vẻ”, “trên núi cao cô tịch”, vào lúc đêm xuống.Đức Giê-su không khinh thường việc cầu nguyện cộng đoàn, huống chi lời cầu nguyện phụng vụ. Rõ ràng Ngài không bao giờ công bố bất cứ lời nào chống lại hội đường; Ngài đã tham dự phụng tự hội đường, ở đó Ngài đã ngỏ lời; chính Ngài, Ngài đã công khai cầu nguyện trước các môn đệ và trước đám đông. Nhưng việc cầu nguyện mà Ngài lên án là đạo đức giả, chính là cầu nguyện cốt nhằm cho thiên hạ thấy mà ngợi khen mình. Cầu nguyện là đi vào trong mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa, Đấng ngự trong cõi thâm sâu của lòng bạn.
[4] Luật Mô-sê chỉ đòi buộc một ngày ăn chay đó là ngày lễ Xá tội. Nhưng cũng có những ăn chay tùy ý, ăn chay tùy hoàn cảnh và ăn chay vì lòng đạo đức. Người Pha-ri-sêu ăn chay vì lòng đạo đức vào ngày thứ hai và thứ năm trong tuần.Đức Giê-su đòi hỏi một sự biện phân tinh tế trong việc thực hành ăn chay. Khi ăn chay, đừng làm ra vẻ gì là mình ăn chay để không ai thấy là anh ăn chay ngoài trừ “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”. Đây là bài học về lòng khiêm hạ và tôn trọng sự thật. Hành vi tôn giáo có thể không đạt được mục đích nếu ý hướng sai lầm. Nhưng điều Đức Giê-su đặc biệt muốn mặc khải, được lập lại đến ba lần như điệp khúc, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi thâm sâu nhất của con người. Đây là tôn giáo “thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật” mà Đức Giê-su đã mặc khải cho người phụ nữ Sa-ma-ri.
[5] Huấn thị bố thí được ghi trong Lề Luật: “Anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng… Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy vì việc đó, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ chức phúc cho anh emtrong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện. Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em” (Đnl 15: 7-11). Huấn thị này chiếm một chỗ quan trọng trong văn chương kinh sư. Các sách minh triết cũng thường ca ngợi đức hạnh này. Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng Đức Giê-su, dù nghèo, cũng đã thực thi bố thí một cách kín đáo (Ga 13: 29). Bố thí không phải là một cử chỉ phô trương cho thiên hạ thấy, bởi vì Thiên Chúa là “Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”.
[6] Richard Gutzwiller, Suy niệm Tin Mừng Matthêu. Niềm Tin. Tr. 119- 126 và 157- 160
Nguồn: Giáo phận Xuân Lộc - giaophanxuanloc.net