CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI TRANG WEB TRUYỀN THÔNG GIÁO XỨ THÁNH TÂM      (website đang được phát triển - eMail: GXThanhTamHN@gmail.com) Thánh lễ tại Beirut Waterfront: Libăng, hãy trỗi dậy! Sau khi rời Cảng Beirut, Đức Thánh Cha đã đến khu vực Beirut Waterfront để dâng Thánh Lễ cùng với khoảng 150 ngàn tín hữu. Đọc tất cả   Đức Thánh Cha: Tôi đã nghĩ đến việc nghỉ hưu, nhưng rồi tôi đã phó thác cho Chúa Trên chuyến bay từ Libăng trở về Roma, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã gặp gỡ các nhà báo và nói về vai trò của Tòa Thánh – vốn làm việc ở “hậu trường” trong các cuộc đàm phán hòa bình để các bên buông bỏ vũ khí. Về vấn đề Ucraina, ngài nhấn mạnh sự tham dự của châu Âu và tầm quan trọng của vai trò mà Ý có thể đảm nhận. Ngài trả lời một câu hỏi về phản ứng của mình khi được bầu trong Mật nghị Hồng y và về đời sống thiêng liêng của ngài: dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa và để Người “dẫn đường”. Đọc tất cả   [Highlight 02/12] Ngày cuối cùng chuyến tông du đầu tiên của ĐTC Lêô XIV Chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Lêô XIV, từ ngày 27-30/11/2025, diễn ra trong bối cảnh kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa. Chuyến viếng thăm Libăng, từ ngày 30/11-2/12/2025, mang khẩu hiệu “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” nhấn mạnh đối thoại và hoà giải cho Libăng. Đọc tất cả   Đức Thánh Cha Lêô XIV kết thúc chuyến Tông du đầu tiên tại Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng Chiều ngày 02/12, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã kết thúc chuyến Tông du sáu ngày đến Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng, một hành trình được đánh dấu bằng thông điệp hòa bình, đại kết và đối thoại liên tôn. Trên chuyến bay trở về Roma, Đức Thánh Cha vẫn duy trì truyền thống gửi điện tín từ trên không phận các quốc gia ngài bay qua. Đọc tất cả   Sơ Juliana và sứ vụ phiên dịch cho người Công giáo khiếm thính tại Kenya Giữa nhịp sống hối hả của đời thường, sự thinh lặng đã trở thành một điều mà chẳng ai còn chỗ cho nó. Thế nhưng, có những người sống trong thế giới của chính sự thinh lặng ấy, và sơ Juliana Muya tìm cách mang Lời Chúa đến thế giới thinh lặng đó qua ngôn ngữ ký hiệu. Đọc tất cả   Chứng từ cảm động của Cha Charbel - tuyên úy nhà tù: Thiên Chúa không bao giờ ngừng tha thứ Trình bày chứng từ trong cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha Lêô XIV với các Giám mục, Linh mục, tu sĩ và các nhân viên mục vụ ở Libăng, Cha Charbel Fayad chia sẻ: Một lần, một tù nhân nói với con: “Cha đến tận đây… nghĩa là Chúa không quên con.” Đọc tất cả   ĐTC Lêô nói về nền tảng hòa bình, tình bạn và tình yêu chân thật với người trẻ Ngày 1/12, chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới đất nước Libăng đã được tiếp tục ghi dấu ấn bằng cuộc gặp gỡ đầy xúc động với giới trẻ. Sự kiện diễn ra tại quảng trường phía trước trụ sở Tòa Thượng Phụ của Giáo hội Công giáo Maronite ở Bkerké. Đọc tất cả   [Tông du Libăng] Đức Thánh Cha cầu nguyện tại nơi xảy ra vụ nổ ở cảng Beirut Trong ngày cuối cùng ở Libăng, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã đến thăm địa điểm xảy ra vụ nổ thảm khốc ở cảng Beirut vào tháng 8/2020 khiến hơn 240 người thiệt mạng và 7.000 người bị thương. Ngài cầu nguyện trước tượng đài bằng đá cẩm thạch khắc tên từng người đã khuất. Ngài đặt vòng hoa và chào thăm những người sống sót cùng gia đình các nạn nhân. Đọc tất cả   [Tông du Libăng] Đức Thánh Cha thăm các nhân viên và bệnh nhân bệnh viện “de la Croix” Ngày 2/12/2025, thăm bệnh viện La Croix do các Nữ tu Phan Sinh Thánh Giá điều hành, Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi đừng quên người nghèo: "Chúng ta không thể tưởng tượng được một xã hội vội vã, bám víu vào những huyền thoại sai lầm về hạnh phúc, phớt lờ biết bao hoàn cảnh nghèo đói và dễ bị tổn thương." Ngài cũng nói với các bệnh nhân: “Anh chị em ở trong trái tim của Thiên Chúa, Cha của chúng ta. Người nâng đỡ anh chị em trong lòng bàn tay của Người, đồng hành với anh chị em bằng tình yêu". Đọc tất cả   Đức Thánh Cha Lêô XIV gặp gỡ giới trẻ tại Libăng Chiều nay, ngày 1/12, chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới đất nước Libăng đã được tiếp tục ghi dấu ấn bằng cuộc gặp gỡ đầy xúc động với giới trẻ. Sự kiện diễn ra tại quảng trường phía trước trụ sở Tòa Thượng Phụ của Giáo hội Công giáo Maronite ở Bkerké. Đọc tất cả  

Giáo Hội Việt Nam

Giáo lý cho bài giảng Chúa nhật 3 Mùa Chay năm B

28/02/2024 - 39


GIÁO LÝ CHO BÀI GIẢNG
(Theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích)

CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY NĂM B

WHĐ (28.02.2024)Để hỗ trợ các nhà giảng thuyết thuận tiện hơn trong việc thêm giáo lý vào bài giảng, Ban Biên tập xin được trích dẫn những điểm giáo lý phù hợp với các bài đọc Kinh Thánh của các lễ Chúa nhật, lễ trọng theo sự theo hướng dẫn của Bộ Phụng tự và Kỷ luật các Bí tích trong Tập sách Hướng dẫn giảng thuyết được công bố qua Sắc lệnh ký ngày 29.06.2014.


Số 459, 577-582: Chúa Giêsu và Lề luật

Số 593, 583-586: Đền thờ báo trước Đức Kitô; Người là Đền thờ. 3

Số 1967-1968: Luật mới hoàn thành Luật cũ. 5

Số 272, 550, 853: Quyền năng của Đức Kitô được mạc khải trên Thập Giá. 5

Bài Ðọc I: Xh 20, 1-17. 6

Bài Ðọc II: 1Cr 1, 22-25. 8

Phúc Âm: Ga 2, 13-25


Số 459, 577-582: Chúa Giêsu và Lề luật

459. Ngôi Lời đã làm người để trở thành gương mẫu thánh thiện cho chúng ta. “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi…” (Mt 11,29). “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga l4,6). Và trên núi Hiển Dung, Chúa Cha đã truyền: “Hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7)[1]. Người đúng là gương mẫu của các mối phúc thật và là chuẩn mực của Luật mới: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga l5,l2). Tình yêu này đòi hỏi người ta thật sự hiến thân để đi theo Người[2].

577. Khởi đầu Bài giảng trên núi, Chúa Giêsu đưa ra một giáo huấn long trọng trong đó Người trình bày Lề luật, đã được Thiên Chúa ban tại Sinai dịp Giao Ước đầu tiên, dưới ánh sáng của ân sủng của Giao Ước Mới:

“Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môisen hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành, và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (Mt 5,17-19).

578. Chúa Giêsu, Đấng Messia của Israel, do đó là người lớn nhất trong Nước Trời, đã phải chu toàn Lề luật, khi tuân giữ toàn bộ Lề luật, theo chính lời Người nói, cho đến cả những điều răn nhỏ nhất. Nói cho đúng, chính Người là Đấng duy nhất đã có thể làm điều này một cách trọn hảo[3]. Những người Do Thái, theo chính họ thú nhận, đã không bao giờ có thể chu toàn trọn bộ Lề luật mà không vi phạm một điều răn nhỏ nhất nào[4]. Vì vậy trong lễ Xá Tội hằng năm, con cái Israel cầu xin Thiên Chúa tha thứ cho những lỗi phạm Lề luật của họ. Thật vậy, Lề luật tạo thành một tổng thể và, như thanh Giacôbê nhắc nhở, “ai tuân giữ tất cả Lề luật, mà chỉ sa ngã về một điểm thôi, thì cũng thành người có tội về hết mọi điểm” (Gc 2,10)[5].

579. Những người Pharisêu rất trọng nguyên tắc tuân giữ toàn bộ Lề luật, không những chỉ theo văn tự, mà cả theo tinh thần nữa. Khi nêu nguyên tắc đó cho Israel, họ đã dẫn đưa nhiều người Do Thái thời Chúa Giêsu tới việc hết sức nhiệt thành giữ đạo[6]. Điều này, nếu không bị phá huỷ do việc xét đoán mọi sự cách “giả hình”[7], thì nhất định đã chuẩn bị cho dân hướng tới sự can thiệp chưa từng thấy của Thiên Chúa, là việc thi hành trọn vẹn Lề luật sẽ được hoàn thành bởi Đấng Công Chính duy nhất thay cho mọi tội nhân[8].

580. Việc chu toàn Lề luật cách trọn hảo chỉ có thể được thực hiện bởi Đấng ban hành Lề luật của Thiên Chúa, là Ngôi Con, được sinh ra dưới Lề luật[9]. Nơi Chúa Giêsu, Lề luật không còn được ghi trên bia đá nữa, nhưng “vào lòng dạ” và “vào tâm khảm” (Gr 31,33) của Người Tôi Trung, là người, vì đã “trung thành làm sáng tỏ công lý” (Is 42,3), nên được đặt làm “Giao Ước với dân” (Is 42,6). Chúa Giêsu chu toàn Lề luật cho đến độ đảm nhận trên mình “lời nguyền rủa của Lề luật”[10] mà những ai “không bền chí thi hành tất cả những gì được chép trong sách Luật” đã chuốc lấy[11], bởi vì Đức Kitô đã chịu chết “mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời Giao Ước Cũ” (Dt 9,15).

581. Trước mắt người Do Thái và các nhà lãnh đạo tinh thần của họ, Chúa Giêsu xuất hiện như một “kinh sư”[12]. Người thường tranh luận về cách giải thích Lề luật của các kinh sư[13]. Nhưng đồng thời, Chúa Giêsu tất yếu phải đối đầu với những tiến sĩ Luật bởi vì khi trình bày cách giải thích của mình, Người không tự giới hạn trong những cách giải thích của họ; “vì Người giảng dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7,28-29). Nơi Người, cùng một Lời của Thiên Chúa đã từng vang lên trên núi Sinai để ban hành Lề luật được ghi khắc cho ông Môisen, nay lại vang dội trên núi Bát Phúc[14]. Đấng là Ngôi Lời không bãi bỏ, nhưng kiện toàn Lề luật, bằng cách đưa ra lời giải thích tối hậu với một uy quyền thần linh: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng…. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết” (Mt 5,33-34). Chính Người, với cùng một thẩm quyền thần linh ấy, phủ nhận một số “truyền thống của người phàm”[15] (Mc 7,8) của nhóm Pharisêu, vì những truyền thống đó hủy bỏ Lời Thiên Chúa[16].

582. Đi xa hơn nữa, Chúa Giêsu còn kiện toàn Lề luật về sự thanh sạch của các thức ăn, một điều hết sức quan trọng trong cuộc sống hằng ngày của người Do Thái, khi Người cho thấy ý nghĩa “quản giáo” của luật ấy[17] bằng lời giải thích thần linh: “Bất cứ cái gì từ bên ngoài vào trong con người, thì không thể làm cho con người ra ô uế…. Như vậy là Người tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch…. Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu” (Mc 7,18-21). Khi lấy thẩm quyền thần linh mà đưa ra lời giải thích tối hậu về Lề luật, Chúa Giêsu ở trong tình thế đối nghịch với một số kinh sư không chấp nhận lời giải thích của Người, mặc dù lời giải thích này được củng cố bằng những dấu lạ thần linh kèm theo[18]. Điều này đặc biệt đúng, trong vấn đề ngày sabat. Chúa Giêsu thường dựa trên chính lập luận của các kinh sư[19], để nhắc nhở rằng luật nghỉ ngơi ngày sabat không bị vi phạm khi phục vụ Thiên Chúa[20] hay phục vụ người lân cận[21], như trường hợp các lần Người chữa lành.

 

Số 593, 583-586: Đền thờ báo trước Đức Kitô; Người là Đền thờ

593. Chúa Giêsu tôn trọng Đền thờ: Người lên Đền thờ vào những dịp lễ hành hương của người Do Thái và Người yêu mến với một tình yêu tha thiết nơi Thiên Chúa ở giữa loài người. Đền thờ báo trước mầu nhiệm của Người. Người loan báo sự sụp đổ của Đền thờ, như một biểu hiện việc chính Người sẽ bị giết và việc lịch sử cứu độ bước vào một thời đại mới trong đó Thân Thể Người sẽ là Đền thờ vĩnh viễn.

583. Chúa Giêsu, cũng như các Tiên tri trước Người, tỏ lòng tôn kính rất sâu xa đối với Đền thờ Giêrusalem. Ở đó, Người đã được thánh Giuse và Đức Maria tiến dâng, bốn mươi ngày sau khi Người ra đời[22]. Lúc mười hai tuổi, Người quyết định ở lại trong Đen thờ để nhắc cha mẹ Người nhớ rằng Người phải lo việc của Cha Người[23]. Trong quãng đời ẩn dật của Người, Người đều lên Đền thờ mỗi năm ít nhất để mừng lễ Vượt Qua[24]; thừa tác vụ công khai của Người được đánh dấu như theo nhịp điệu những lần Người hành hương lên Giêrusalem vào những dịp lễ lớn của người Do Thái[25].

584. Chúa Giêsu lên Đền thờ với tính cách là đến một nơi để gặp gỡ Thiên Chúa. Đối với Người, Đền thờ là nhà của Cha Người, nhà cầu nguyện, và Người phẫn nộ bởi vì tiền đường Đền thờ đã trở thành nơi buôn bán[26]. Sở dĩ Người xua đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi Đền thờ, đó là vì long yêu mến nhiệt thành đối với Cha Người: “Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán. Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Thánh Kinh: ‘Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân’ (Tv 69,10)” (Ga 2,16-17). Sau khi Người phục sinh, các Tông Đồ vẫn giữ một lòng tôn kính đạo hạnh đối với Đền thờ[27].

585. Tuy nhiên, ngay trước cuộc khổ nạn của Người, Chúa Giêsu đã tiên báo sự sụp đổ của công trình kiến trúc nguy nga ấy, tại đó sẽ không còn tảng đá nào nằm trên tảng đá nào[28]. Người loan báo sự việc ấy như là một dấu chỉ của thời đại sau cùng, thời đại được khai mở bằng cuộc Vượt Qua của Người[29]. Nhưng lời tiên báo đó đã bị những kẻ làm chứng gian bóp méo khi được thuật lại trong cuộc thẩm vấn Người trước mặt vị thượng tế[30]. Người ta còn dùng lời ấy để nhục mạ Người khi Người bị đóng đinh trên thập giá[31].

586. Chúa Giêsu không hề có thái độ thù nghịch Đền thờ[32], chính tại đó Người đã giảng dạy một phần giáo huấn quan trọng của Người[33], Người đã muốn nộp thuế Đền thờ cho mình và cho ông Phêrô[34] mà Người vừa mới đặt làm nền tảng cho Hội Thánh tương lai của Người[35]. Hơn nữa, Người tự đồng hóa mình với Đền thờ khi tự giới thiệu mình là nơi ở vĩnh viễn của Thiên Chúa giữa loài người[36]. Chính vì vậy mà việc thân thể Người bị sát hại[37] loan báo việc Đền thờ bị phá hủy, điều đó cho thấy lịch sử cứu độ đã bước vào một thời đại mới: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem” (Ga 4,21)[38].

 

Số 1967-1968: Luật mới hoàn thành Luật cũ

1967. Luật Tin Mừng hoàn thành[39], tinh luyện, vượt qua và kiện toàn Luật cũ. Trong các mối phúc, Luật mới hoàn thành các lời hứa thần linh khi nâng cao chúng lên và quy hướng chúng về “Nước Trời”. Luật Tin Mừng dành cho những ai sẵn sàng đón nhận niềm hy vọng mới này với lòng tin: những người nghèo, người khiêm tốn, người đau khổ, người có trái tim trong sạch, người bị bách hại vì Đức Kitô, như vậy Luật Tin Mừng phác hoạ những con đường chưa từng thấy của Nước Trời.

1968. Luật Tin Mừng hoàn thành các mệnh lệnh của Lề Luật. Bài giảng của Chúa không hủy bỏ hay làm giảm giá trị các quy định luân lý của Luật cũ, nhưng rút ra những sức mạnh còn ẩn kín của chúng, và làm cho từ nơi chúng phát sinh ra những đòi hỏi mới: Luật Tin Mừng mạc khải toàn bộ chân lý thần linh và nhân linh của Luật cũ. Luật mới không thêm những mệnh lệnh mới từ bên ngoài, nhưng đi đến chỗ biến đổi gốc rễ của các hành vi, là trái tim, nơi con người chọn lựa giữa thanh sạch và ô uế[40], nơi hình thành đức tin, đức cậy, đức mến, và cùng với chúng, các nhân đức khác. Như vậy, Tin Mừng đưa Lề Luật tới sự viên mãn của nó nhờ bắt chước sự trọn hảo của Cha trên trời[41], nhờ việc tha thứ cho kẻ thù và cầu nguyện cho những người bách hại, giống như lòng quảng đại của Thiên Chúa[42].

 

Số 272, 550, 853: Quyền năng của Đức Kitô được mạc khải trên Thập Giá

272. Đức tin vào Thiên Chúa là Cha toàn năng có thể bị thử thách do kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ. Đôi khi Thiên Chúa có thể bị coi như vắng mặt và bất lực không ngăn chặn được sự dữ. Thật ra, Thiên Chúa là Cha đã mạc khải sự toàn năng của Ngài một cách hết sức huyền nhiệm trong việc Con của Ngài tự nguyện hạ mình và sống lại, nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự dữ. Như vậy, Đức Kitô bị đóng đinh là sức mạnh của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Thiên Chúa “vì sự điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1 Cr 1,25). Trong việc Đức Kitô sống lại và được tôn vinh, Chúa Cha biểu dương “sức mạnh toàn năng đầy hiệu lực” của Ngài và cho thấy “quyền lực vô cùng lớn lao” của Ngài mà “Ngài đã thi thố cho chúng ta là những tín hữu” (Ep 1,19-22).

550. Khi Nước Thiên Chúa trị đến là lúc nước Satan bị sụp đổ[43]: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt l2,28). Những việc trừ quỷ do Chúa Giêsu thực hiện, giải phóng người ta khỏi quyền thống trị của ma quỷ[44]. Những việc ấy báo trước sự chiến thắng cao cả của Chúa Giêsu trên “thủ lãnh thế gian này”[45]. Nhờ thập giá của Đức Kitô mà Nước Thiên Chúa sẽ được thiết lập vĩnh viễn: “Thiên Chúa đã cai trị từ cây gỗ”[46].

853. Nhưng trên đường lữ hành, Hội Thánh cũng cảm nghiệm “khoảng cách giữa sứ điệp mà Hội Thánh phải rao giảng và sự yếu hèn nhân loại của những người được ủy thác Tin Mừng”[47]. Chỉ bằng con đường “sám hối và canh tân”[48] và “qua cửa hẹp của Thập Giá”[49], Dân Thiên Chúa mới có thể mở rộng Nước Đức Kitô[50]. “Cũng như Đức Kitô đã hoàn thành công trình cứu chuộc trong nghèo khó và bị bách hại, Hội Thánh cũng được kêu gọi tiến bước trên chính con đường đó, để truyền thông cho người ta những hoa trái của ơn cứu độ”[51].

 

Bài Ðọc I: Xh 20, 1-17

“Luật do Môsê đã ban ra”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai Cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta, đừng chạm trổ tượng gỗ, hay vẽ hình các vật trên trời, dưới đất, trong nước, dưới lòng đất. Ðừng thờ lạy và phụng sự các hình tượng ấy, vì Ta là Chúa, Thiên Chúa ngươi, Chúa hùng mạnh, Chúa ganh tị, trừng phạt con vì tội lỗi cha, cho đến ba bốn đời, những kẻ ghét Ta; Ta tỏ lòng nhân lành đến ngàn đời đối với những ai kính mến Ta và tuân giữ các giới răn Ta.

Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt.

Ngươi hãy nhớ thánh hóa ngày Sabbat. Ngươi làm lụng và làm tất cả mọi việc trong sáu ngày, còn ngày thứ bảy là ngày Sabbat, thì thuộc về Chúa, Thiên Chúa ngươi; trong ngày đó, ngươi, con trai, con gái, tôi tớ nam nữ, súc vật, ngoại kiều trọ trong nhà ngươi, tất cả không được làm việc gì. Vì trong sáu ngày, Chúa đã tạo dựng trời, đất, biển, và tất cả mọi vật trong đó, rồi Người nghỉ trong ngày thứ bảy: cho nên Chúa chúc phúc và thánh hóa ngày Sabbat.

Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người, chớ phạm tội ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng dối hại anh em mình, chớ tham lam nhà của kẻ khác, chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.

Ðó là lời Chúa.

 

Hoặc đọc bài này: Xh 20, 1-3. 7-8. 12-17

“Luật do Môsê đã ban ra”.

Trích sách Xuất Hành.

Trong những ngày ấy, Chúa phán bảo những lời sau đây: Ta là Thiên Chúa ngươi, Ðấng đã dẫn dắt ngươi ra khỏi vùng Ai Cập, khỏi nhà nô lệ. Ngươi không được thờ thần nào khác trước mặt Ta. Ngươi đừng lấy danh Chúa, Thiên Chúa ngươi, mà lường gạt, vì Chúa không thể không trừng phạt kẻ nào lấy danh Người mà lường gạt. Ngươi hãy nhớ thánh hóa ngày Sabbat.

Ngươi hãy tôn kính cha mẹ, để ngươi được sống lâu dài trong xứ mà Thiên Chúa sẽ ban cho ngươi. Ngươi chớ giết người; chớ phạm tội ngoại tình; chớ trộm cắp; chớ làm chứng dối hại anh em mình; chớ tham lam nhà của kẻ khác; chớ ham muốn vợ bạn hữu, tôi tớ nam nữ, bò lừa và bất cứ vật gì của bạn hữu.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp ca: Tv 18,8. 9. 10. 11

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.

Xướng: 1) Luật pháp Chúa toàn thiện, bồi bổ tâm linh; chỉ thị Chúa cố định, phá ngu kẻ dốt.

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.

2) Giới răn Chúa chính trực, làm hoan lạc tâm can; mệnh lệnh Chúa trong ngời, sáng soi con mắt.

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.

3) Lòng tôn sợ Chúa thuần khiết, còn mãi muôn đời; phán quyết của Chúa chân thực, công minh hết thảy.

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.

4) Những điều đó đáng chuộng hơn vàng, hơn cả vàng ròng, ngọt hơn mật và hơn cả mật tàng ong.

Ðáp: Lạy Chúa, Chúa có lời ban sự sống đời đời.

 

Bài Ðọc II: 1Cr 1, 22-25

“Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho nhiều người, nhưng là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đối với những người được gọi”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, các người Do Thái đòi hỏi những dấu lạ, những người Hy Lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo, nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, thì Ngài là Ðức Kitô, quyền năng của Thiên Chúa và sự khôn ngoan của Chúa Cha, vì sự điên rồ của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và điều yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự mạnh mẽ của loài người.

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,4b

Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.

 

Phúc Âm: Ga 2, 13-25

“Các ngươi cứ phá huỷ đền thờ này, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Lễ Vượt Qua của dân Do Thái gần đến, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Người thấy ở trong Ðền thờ có những người bán bò, chiên, chim câu và cả những người ngồi đổi tiền bạc, người chắp dây thừng làm roi, đánh đuổi tất cả bọn cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ. Người hất tung tiền của những người đổi bạc, xô đổ bàn ghế của họ và bảo những người bán chim câu rằng: “Hãy đem những thứ này đi khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán”. Môn đệ liền nhớ lại câu Kinh Thánh: “Sự nhiệt thành vì nhà Chúa sẽ thiêu đốt tôi”.

Bấy giờ người Do Thái bảo Người rằng: “Ông hãy tỏ cho chúng tôi thấy dấu gì là ông có quyền làm như vậy”. Chúa Giêsu trả lời: “Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi, nội trong ba ngày Ta sẽ dựng lại”. Người Do Thái đáp lại: “Phải bốn mươi sáu năm mới xây được đền thờ này, mà Ông, Ông sẽ dựng lại trong ba ngày ư?” Nhưng Người, Người có ý nói đền thờ là thân thể Người. Vì thế, khi Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại, các môn đệ mới nhớ lời đó, nên đã tin Kinh Thánh và tin lời Người đã nói.

Trong thời gian Người ở lại Giêrusalem mừng lễ Vượt qua, nhiều kẻ tin danh Người, vì mục kích những phép lạ Người làm. Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng họ, vì Người biết tất cả mọi người, và không cần ai làm chứng về người nào; Người biết rõ mọi điều trong lòng người ta.

Ðó là lời Chúa.





[1] X. Đnl 6,4-5.

[2] X. Mc 8,34.

[3] X. Ga 8,46.

[4] X. Ga 7,19; Cv 13,38-41; 15,10.

[5] X. Gl 3,10; 5,3.

[6] X. Rm 10,2.

[7] X. Mt 15,3-7; Lc 11,39-54.

[8] X. Is 53,11; Dt 9,15.

[9] X. Gl 4,4.

[10] X. Gl 3,13.

[11] X. Gl 3,10.

[12] X. Ga 11,28; 3,2; Mt 22,23-24.34-36.

[13] X. Mt 12,5; 9,12; Mc 2,23-27; Lc 6,6-9; Ga 7,22-23.

[14] X. Mt 5,1.

[15] X. Mc 7,8.

[16] X. Mc 7,13.

[17] X. Gl 3,24.

[18] X. Ga 5,36; 10,25.37-38; 12,37.

[19] X. Mc 2,25-27; Ga 7,22-24.

[20] X. Mt 12,5; Ds 28,9.

[21] X. Lc 13,15-16; 14,3-4.

[22] X. Lc 2,22-39.

[23] X. Lc 2,46-49.

[24] X. Lc 2,41.

[25] X. Ga 2,13-14; 5,1.14; 7,1.10.14; 8,2; 10,22-23.

[26] X. Mt 21,23.

[27] X. Cv 2,46; 3,1; 5,20-21; v.v….

[28] X. Mt 24,1-2.

[29] X. Mt 24,3; Lc 13,35.

[30] X. Mc 14,57-58.

[31] X. Mt 27,39-40.

[32] X. Mt 8,4; 23,21; Lc 17,14; Ga 4,22.

[33] X. Ga 18,20.

[34] X. Mt 17,24-27.

[35] X. Mt 16,18.

[36] X. Ga 2,21; Mt 12,6.

[37] X. Ga 2,18-22.

[38] X. Ga 4,23-24; Mt 27,51; Dt 9,11; Kh 21,22.

[39] X. Mt 5,17-19.

[40] X. Mt 15,18-19.

[41] X. Mt 5,48.

[42] X. Mt 5,44.

[43] X. Mt 12,26.

[44] X. Lc 8,26-39.

[45] X. Ga 12,31.

[46] Vênantiô Fortunatô, Hymnus “Vexilla Regis”: MGH 1/4/1, 34 (PL 88, 96).

[47] CĐ Vaticanô II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 43: AAS 58 (1966) 1064.

[48] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12; x. Ibid., 15: AAS 57 (1965) 20.

[49] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Ad Gentes, 1: AAS 58 (1966) 947.

[50] X. ĐGH Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptoris missio, 12-20: AAS 83 (1991) 260-268.

[51] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 8: AAS 57 (1965) 12.



Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - hdgmvietnam.com

× Thành công! Câu hỏi của cộng đoàn đã được gửi. Câu hỏi của quý vị sẽ được trả lời trong thời gian sớm nhất có thể. Xin cám ơn. Trân trọng.