CHÀO MỪNG BẠN ĐẾN VỚI TRANG WEB TRUYỀN THÔNG GIÁO XỨ THÁNH TÂM      (website đang được phát triển - eMail: GXThanhTamHN@gmail.com) Thánh lễ tại Beirut Waterfront: Libăng, hãy trỗi dậy! Sau khi rời Cảng Beirut, Đức Thánh Cha đã đến khu vực Beirut Waterfront để dâng Thánh Lễ cùng với khoảng 150 ngàn tín hữu. Đọc tất cả   Đức Thánh Cha: Tôi đã nghĩ đến việc nghỉ hưu, nhưng rồi tôi đã phó thác cho Chúa Trên chuyến bay từ Libăng trở về Roma, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã gặp gỡ các nhà báo và nói về vai trò của Tòa Thánh – vốn làm việc ở “hậu trường” trong các cuộc đàm phán hòa bình để các bên buông bỏ vũ khí. Về vấn đề Ucraina, ngài nhấn mạnh sự tham dự của châu Âu và tầm quan trọng của vai trò mà Ý có thể đảm nhận. Ngài trả lời một câu hỏi về phản ứng của mình khi được bầu trong Mật nghị Hồng y và về đời sống thiêng liêng của ngài: dâng hiến đời mình cho Thiên Chúa và để Người “dẫn đường”. Đọc tất cả   [Highlight 02/12] Ngày cuối cùng chuyến tông du đầu tiên của ĐTC Lêô XIV Chuyến viếng thăm Thổ Nhĩ Kỳ của Đức Thánh Cha Lêô XIV, từ ngày 27-30/11/2025, diễn ra trong bối cảnh kỷ niệm 1700 năm Công đồng Nixêa. Chuyến viếng thăm Libăng, từ ngày 30/11-2/12/2025, mang khẩu hiệu “Phúc thay ai xây dựng hoà bình” nhấn mạnh đối thoại và hoà giải cho Libăng. Đọc tất cả   Đức Thánh Cha Lêô XIV kết thúc chuyến Tông du đầu tiên tại Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng Chiều ngày 02/12, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã kết thúc chuyến Tông du sáu ngày đến Thổ Nhĩ Kỳ và Libăng, một hành trình được đánh dấu bằng thông điệp hòa bình, đại kết và đối thoại liên tôn. Trên chuyến bay trở về Roma, Đức Thánh Cha vẫn duy trì truyền thống gửi điện tín từ trên không phận các quốc gia ngài bay qua. Đọc tất cả   Sơ Juliana và sứ vụ phiên dịch cho người Công giáo khiếm thính tại Kenya Giữa nhịp sống hối hả của đời thường, sự thinh lặng đã trở thành một điều mà chẳng ai còn chỗ cho nó. Thế nhưng, có những người sống trong thế giới của chính sự thinh lặng ấy, và sơ Juliana Muya tìm cách mang Lời Chúa đến thế giới thinh lặng đó qua ngôn ngữ ký hiệu. Đọc tất cả   Chứng từ cảm động của Cha Charbel - tuyên úy nhà tù: Thiên Chúa không bao giờ ngừng tha thứ Trình bày chứng từ trong cuộc gặp gỡ của Đức Thánh Cha Lêô XIV với các Giám mục, Linh mục, tu sĩ và các nhân viên mục vụ ở Libăng, Cha Charbel Fayad chia sẻ: Một lần, một tù nhân nói với con: “Cha đến tận đây… nghĩa là Chúa không quên con.” Đọc tất cả   ĐTC Lêô nói về nền tảng hòa bình, tình bạn và tình yêu chân thật với người trẻ Ngày 1/12, chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới đất nước Libăng đã được tiếp tục ghi dấu ấn bằng cuộc gặp gỡ đầy xúc động với giới trẻ. Sự kiện diễn ra tại quảng trường phía trước trụ sở Tòa Thượng Phụ của Giáo hội Công giáo Maronite ở Bkerké. Đọc tất cả   [Tông du Libăng] Đức Thánh Cha cầu nguyện tại nơi xảy ra vụ nổ ở cảng Beirut Trong ngày cuối cùng ở Libăng, Đức Thánh Cha Lêô XIV đã đến thăm địa điểm xảy ra vụ nổ thảm khốc ở cảng Beirut vào tháng 8/2020 khiến hơn 240 người thiệt mạng và 7.000 người bị thương. Ngài cầu nguyện trước tượng đài bằng đá cẩm thạch khắc tên từng người đã khuất. Ngài đặt vòng hoa và chào thăm những người sống sót cùng gia đình các nạn nhân. Đọc tất cả   [Tông du Libăng] Đức Thánh Cha thăm các nhân viên và bệnh nhân bệnh viện “de la Croix” Ngày 2/12/2025, thăm bệnh viện La Croix do các Nữ tu Phan Sinh Thánh Giá điều hành, Đức Thánh Cha Lêô XIV kêu gọi đừng quên người nghèo: "Chúng ta không thể tưởng tượng được một xã hội vội vã, bám víu vào những huyền thoại sai lầm về hạnh phúc, phớt lờ biết bao hoàn cảnh nghèo đói và dễ bị tổn thương." Ngài cũng nói với các bệnh nhân: “Anh chị em ở trong trái tim của Thiên Chúa, Cha của chúng ta. Người nâng đỡ anh chị em trong lòng bàn tay của Người, đồng hành với anh chị em bằng tình yêu". Đọc tất cả   Đức Thánh Cha Lêô XIV gặp gỡ giới trẻ tại Libăng Chiều nay, ngày 1/12, chuyến Tông du của Đức Thánh Cha Lêô XIV tới đất nước Libăng đã được tiếp tục ghi dấu ấn bằng cuộc gặp gỡ đầy xúc động với giới trẻ. Sự kiện diễn ra tại quảng trường phía trước trụ sở Tòa Thượng Phụ của Giáo hội Công giáo Maronite ở Bkerké. Đọc tất cả  

Giáo Hội Việt Nam

Các nữ tín hữu thời Giáo hội sơ khai đóng góp tích cực vào việc xây dựng Giáo hội

27/02/2024 - 86

Quan tài đá với chân dung phụ nữ có niên đại vào khoảng đầu thế kỷ thứ 4

CÁC NỮ TÍN HỮU THỜI GIÁO HỘI SƠ KHAI ĐÓNG GÓP TÍCH CỰC VÀO VIỆC XÂY DỰNG GIÁO HỘI

Sơ Christine Schenk CSJ

Vatican News (25.02.2024) - Đời sống tu trì như chúng ta biết ngày nay, cả chiêm niệm và hoạt động tông đồ, đã phát triển qua hai ngàn năm. Trong bài viết cuối cùng trong loạt bốn bài viết này, Sơ Christine Schenk đưa ra một phân tích về điều có thể đã đưa các nữ Kitô hữu thời Giáo hội sơ khai trở thành những người đóng góp tích cực vào việc xây dựng Giáo hội.

Như ba bài viết trước trong loạt bài này chứng thực, các bằng chứng từ các biểu tượng và chữ khắc trong lăng mộ về các nữ Kitô hữu thời kỳ đầu, cũng như các tác phẩm đương thời về “các giáo mẫu của Giáo hội”, cho thấy rằng các phụ nữ thực hiện quyền cai quản, phục vụ với vai trò là các góa phụ, phó tế, lãnh đạo các Giáo hội tại gia và đan viện, các nhà rao giảng Tin Mừng, giáo viên, nhà truyền giáo và ngôn sứ. Trong hầu hết các trường hợp, phụ nữ lãnh đạo các phụ nữ khác, mặc dù có những trường hợp ngoại lệ đáng kể, chẳng hạn như nữ phó tế Marthana ở Seleucia (Thổ Nhĩ Kỳ), đã điều hành một đan viện cả nam và nữ ở địa điểm nới Thánh Thecla tử đạo. Những nữ Kitô hữu thời Giáo hội sơ khai này đã tự do làm chứng và rao giảng bất chấp sự phản đối đáng kể của các nam Kitô hữu thời đó.

Phụ nữ vượt qua sự phản đối như thế nào

Người ta có thể đặt câu hỏi một cách hợp lý rằng sức mạnh và quyền lực nội tại nào đã thúc đẩy các phụ nữ trong Giáo hội sơ khai coi thường những nỗ lực ngăn chặn tiếng nói của họ. Tôi cho rằng điều khiến phụ nữ lên tiếng thay vì im lặng chính là đức tin của họ vào Chúa Kitô phục sinh.

Chúng ta hãy xem xét một quan tài đá với những chi tiết gợi ý rằng ít nhất một nữ Kitô hữu (chúng ta sẽ gọi bà là “Junia” vì không rõ tên thật của bà) có quyền bính.

Trong một hình ảnh được khắc trên quan tài đá, tay trái của bà Junia cầm một bản Kinh Thánh cổ trong khi tay phải của thể hiện cử chỉ bà đang nói. Xếp ở hai bên là các cảnh trong Kinh Thánh bao gồm (từ trái sang phải): Chúa Cha với Cain và Abel, Chúa Kitô với Adam và Eva, cảnh chữa lành người bại liệt, chữa lành người mù, phép lạ tại Cana và phép lạ làm cho Ladarô sống lại. Vài năm trước khi bà Junia qua đời, bà hoặc gia đình bà đã đặt chiếc quan tài được điêu khắc cách độc đáo này để tưởng nhớ bà và những giá trị đã hình thành nên căn tính của bà.

Khi bà Junia qua đời, quan tài của bà được chuyển đến nhà của bà, nơi bà được quàn trong tối đa bảy ngày, để các thành viên trong gia đình, quan khách và bạn bè có thể bày tỏ lòng kính trọng và chiêm ngưỡng quan tài được chạm khắc cẩn thận của bà. Họ bước vào nơi để suy tư về cuộc đời, những giá trị, niềm tin của bà và tất nhiên là ý nghĩa của sự sống và cái chết.

Trong một bài báo xuất bản năm 2004, Tiến sĩ Janet Tulloch, một chuyên gia về các hình ảnh Kitô giáo thời sơ khai, đã nhận xét rằng nghệ thuật cổ xưa được coi là diễn ngôn xã hội nhằm “thu hút người xem với tư cách là người tham gia”. Sử dụng tiêu chí của Tulloch, thật hợp lý khi bà Junia mong muốn những người thân yêu của mình bước vào một nơi chốn và trải nghiệm quyền năng của Đức Kitô để đảo ngược tác động của sự sa ngã - chữa lành người mù và người què, cung cấp thật nhiều rượu trong triều đại mới của Thiên Chúa, và làm cho ông Ladarô (và bà Junia) sống lại từ cõi chết.

Bà Junia lấy thẩm quyền nào để làm chứng và giảng dạy về Đức Kitô? Một gợi ý được tìm thấy khi chúng ta xem xét gương mặt của bà, được điêu khắc cẩn thận gần khuôn mặt của Chúa Kitô đang nghiêng người, miệng như đang thì thầm vào tai bà. Bà Junia và gia đình mong muốn bà được nhớ đến như một người đã giảng dạy với thẩm quyền của Đức Kitô. Những người đưa tang bà không chỉ giao tiếp với bà Junia đã qua đời mà còn với Chúa Kitô, Đấng chữa lành và làm cho sống lại thông qua ý nghĩa được nghệ thuật trên quan tài của bà gợi lên và “thực hiện”. Bà Junia khuyến khích người sống hãy đón nhận Chúa Kitô, Đấng đã trao cho bà thừa tác vụ và là Đấng mà bà làm chứng sau khi qua đời.


Chi tiết về một người phụ nữ đã qua đời (ẩn danh), tay cầm một bản Kinh Thánh và có cử chỉ của một diễn giả, trong khi Chúa Kitô đến gần để nói chuyện với bà

Những người tiên phong sau này

Những người phụ nữ ở thế kỷ thứ 4 này là tiền thân của các nữ tu và tông đồ ở những thời đại sau này, những người đã tin tưởng vào quyền năng của Chúa Kitô để mang lại sự chữa lành và công lý bất chấp sự phản đối. Ví dụ, sự xuất hiện của nền giáo dục công và bệnh viện công ở phương Tây và ở miền Nam bán cầu có thể bắt nguồn từ các dòng nữ từ chối sống đời đan tu để họ được tự do phục vụ người bệnh nghèo và người thất học.

Thánh Clara thành Assisi đã viết nội quy đầu tiên về đời sống đan tu cho phụ nữ. Cộng đoàn của ngài sẽ không còn dựa vào của hồi môn từ những người giàu có nữa. Điều này có nghĩa là tất cả các nữ tu sẽ bình đẳng. Vị giám mục đã phản đối ngài trong nhiều năm chỉ chấp nhận khi thánh nữ sắp qua đời. Bất chấp những lo ngại từ Tòa án dị giáo, Thánh Têrêsa thành Avila đã vạch ra một con đường mới để sống kinh nghiệm có Thiên Chúa hiện diện ở trung tâm cuộc sống chúng ta cũng như trong các hướng dẫn và bí tích của Giáo hội. Trong tác phẩm “Cái chết Đen”, Julian thành Norwich đã tuyên bố về một Thiên Chúa nhân từ, Đấng không kết án vĩnh viễn những ai chết trước khi được nhận ơn tha tội, như Giáo hội đã dạy vào thời điểm đó. Nói chung, các nữ Tiến sĩ của Giáo hội (Thánh Têrêsa thành Avila, Thánh Hildegarde thành Bingen, Thánh Têrêsa thành Lisieux và Thánh Catarina thành Siena) đã làm chứng cho một Thiên Chúa thương xót hơn là phán xét.

Những bức phù điêu được chạm khắc trên ngôi mộ của bà Junia, một nữ Kitô hữu thời Giáo hội sơ khai, cho thấy rằng trải nghiệm hiệp thông với Chúa Kitô phục sinh của bà là nền tảng cho việc rao giảng và giảng dạy của bà bất chấp những lời khuyên phải giữ im lặng. Trong lịch sử lâu dài và đầy thăng trầm của Kitô giáo - và có lẽ đặc biệt là trong lịch sử các dòng nư - sự đồng hành gần gũi của Chúa Kitô đã giúp các tín hữu vượt qua những trở ngại dường như không thể vượt qua, củng cố họ để họ chấp nhận rủi ro nhân danh Thiên Chúa Cha, Đấng mà tình yêu của Người cuối cùng sẽ trị vì dưới đất cũng như trên trời.

Nguồn: vaticannews.va/vi



Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - hdgmvietnam.com

× Thành công! Câu hỏi của cộng đoàn đã được gửi. Câu hỏi của quý vị sẽ được trả lời trong thời gian sớm nhất có thể. Xin cám ơn. Trân trọng.