Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm C (03/6/2016) - Con tim của vị Mục Tử Tốt Lành |
Đức Phanxicô, Bài giảng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm C (03/6/2016) - Con tim của vị Mục Tử Tốt Lành
(Bài giảng thánh lễ cử hành Năm thánh cho các linh mục và chủng sinh trong Năm thánh ngoại thường Lòng Chúa Thương Xót)
Anh em Linh mục thân mến, vì chúng ta đang cử hành Năm Thánh dành cho Linh mục nhân ngày Đại Lễ Kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, nên chúng ta được kêu gọi, hãy trở về với con tim, trở về với nội tâm, trở về với những nguồn cội vững chắc nhất của đời sống, trở về với cốt lõi của những cảm nghĩ – tắt một lời: trở về với trung tâm của con người. Và hôm nay, chúng ta hãy hướng cái nhìn về hai con tim: Con tim của vị Mục Tử Tốt Lành, và con tim mục tử của mỗi chúng ta.
Con tim của vị Mục Tử Tốt Lành không phải chỉ là con tim mà nó có Lòng Nhân Hậu đối với chúng ta, nhưng nó là chính Lòng Thương Xót. Tình Yêu của Thiên Chúa Cha chiếu giãi ở đó; ở đó, tôi đã nhận được cảm nghĩ chắc chắn và sẽ được cảm thông như tôi đang là; ở đó, tôi tận hưởng niềm xác tín rằng, tôi đã được tuyển chọn cũng như đã và đang được yêu thương với tất cả mọi giới hạn cũng như mọi tội lỗi của tôi. Trong khi tôi hướng về con tim ấy, tôi nhớ lại Tình Yêu thuở ban đầu của tôi: tôi nhớ tới phút giây khi Thiên Chúa đụng chạm tới tôi từ trong nơi thẳm sâu nhất, cũng như đã mời gọi tôi bước đi theo Ngài, để dựa vào Lời Ngài, vui mừng thả lưới sự sống (xc. Lc 5,5).
Con tim của vị Mục Tử Tốt Lành nói với chúng ta rằng, Tình Yêu của Ngài không biết tới những giới hạn, và rằng, Tình Yêu ấy sẽ không bao giờ trở nên mệt mỏi, cũng không bao giờ ngừng. Ở đó, chúng ta nhìn ngắm sự trao hiến chính mình một cách liên tục và không giới hạn của Ngài; ở đó, chúng ta tìm thấy nguồn mạch của Tình Yêu trung tín và dịu hiền, mà Tình Yêu ấy cho phép tự do và làm cho người ta được tự do; ở đó, mỗi lần chúng ta đều tái khám phá ra rằng, Chúa Giêsu yêu thương chúng ta “cho đến cùng” (Ga 13,1) – Ngài không dừng lại sớm, nhưng đi cho đến cùng! -, mà không hề có sự kỳ kèo trong một lúc nào đó.
Con tim của vị Mục Tử Tốt Lành trải dài tới chúng ta, nó được “nối mạch” tới tận những ai đang ở xa nhất; mũi kim trên chiếc la bàn của nó kiên định chỉ về hướng, mà ở đó nó biểu lộ một sự yếu đuối đặc biệt của Tình Yêu, vì nó muốn đạt tới được tất cả và không muốn đánh mất bất cứ một ai.
Trước Thánh Tâm Chúa Giêsu, một câu hỏi có tính căn bản của đời sống Linh mục chúng ta bất thần xuất hiện: Con tim của tôi đang được hướng tới đâu? Đó là một câu hỏi mà các Linh mục chúng ta phải thường xuyên đặt ra cho mình, mỗi ngày, mỗi tuần: Con tim của tôi đang hướng về đâu? Sự phục vụ thường xuyên được chất đầy với muôn vàn những sáng kiến, mà những sáng kiến ấy đặt Linh mục vào nhiều mặt trận: Từ việc dậy Giáo lý, tới việc cử hành Phụng Vụ; từ việc dấn thân trong lãnh vực Caritas tới những bổn phận mục vụ, và thậm chí là những bổ phận quản trị. Một câu hỏi vẫn luôn ở giữa rất nhiều những hoạt động: Con tim của tôi đang được neo đậu ở đâu – vì Cha vừa chợt nhớ ra lời cầu nguyện tuyệt vời sau đây của Phụng Vụ: fixa sunt gaudia…, Người ta hướng tới đâu nếu không phải là tới kho tàng mà người ta đang tìm kiếm? Vì thế, Chúa Giêsu nói: “Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt 6,21).
Chúng ta có những yếu đuối, và cũng có những lỗi lầm. Nhưng chúng ta hãy đi tới tận gốc rễ của những yếu đuối cũng như tới tận gốc rẽ của những lồi lầm nơi chúng ta, để tìm cho ra kho tàng mà chúng đang làm cho chúng ta xa cách Thiên Chúa, đang ở chỗ nào.
Con tim của Chúa Giêsu có hai kho tàng không thể thay thế được. Vâng, Chúa Giêsu chỉ có hai kho tàng: Thiên Chúa Cha và chúng ta. Mọi ngày tháng trong đời của Ngài đều diễn ra giữa việc cầu nguyện với Thiên Chúa Cha và sự gặp gỡ với con người. Ngài gặp gỡ với con người mà không có khoảng cách. Ngay cả con tim mục tử của Chúa Kitô cũng chỉ biết tới hai hướng: Thiên Chúa và con người. Con tim của Linh mục chính là con tim bị xuyên thủng bởi Tình Yêu của Thiên Chúa. Vì thế, Ngài không chằm chặp vào bản thân mình nữa (Ngài không nên bám riết vào bản thân mình nữa), nhưng được hướng về Thiên Chúa và con người. Đó không còn phải là “con tim lảo đảo” nữa, tức con tim bị lôi cuốn bởi sức quyến rũ của những điều chóng vánh, hay bị kéo tới kéo lui bởi sự khát khao được tán thành và những đáp ứng nhỏ nhoi. Đó là tội lỗi… Thay vì thế, nó phải là một con tim được củng cố trong Thiên Chúa, được cuốn hút bởi Chúa Thánh Thần, và được mở ra cũng như được đặt ra sẵn ra cho con người sử dụng. Và ở đấy, nó giải quyết vấn đề tội lỗi của mình.
Để làm cho con tim của chúng ta được bừng cháy lên bởi Tình Yêu của Chúa Kitô, bởi Tình Yêu của vị Mục Tử tốt lành, chúng ta có thể rèn luyện để làm cho ba hành động sau đây được hiệp nhất thành một: khát khao, bao hàm và vui mừng.
Trước tiên là sự khát khao tìm kiếm. Ngôn Sứ Êdêkien đã nhắc nhớ chúng ta rằng, chính Thiên Chúa kiếm tìm chiên của Ngài (Ed 34,11.16). Ngài “đi đến với con chiên bị lạc” – Tin Mừng nói như thế (Lc 16,4), mà không hề để cho mình bị gây khiếp sợ bởi những hiểm nguy; không hề do dự, Ngài mạnh mẽ đột nhập vào những vùng nằm bên ngoài cánh đồng cỏ; đột nhập vào trong những lĩnh vực nằm ở bên ngoài giờ làm việc. Và Ngài không để cho mình được trả lương cho những giờ làm thêm! Ngài không trì hoãn việc tìm kiếm. Ngài không suy nghĩ theo kiểu: “Hôm nay tôi đã làm xong bổn phận của tôi rồi, chuyện đó ngày mai tôi mới quan tâm”, nhưng ngay lập tức, Ngài bắt tay vào việc. Con tim của Ngài sẽ luôn bất an cho tới khi nào Ngài tái tìm thấy con chiên bị lạc. Và khi Ngài tìm thấy nó rồi, Ngài sẽ lập tức quên đi những vất vả cực nhọc, rồi vác nó lên vai của mình với tất cả sự hài lòng. Ngài phải đi ra để kiếm tìm nó, nói với nó, dỗ dành nó. Đôi khi Ngài cũng phải lưu lại trước Nhà Tạm và chiến đấu với Chúa vì con chiên đó.
Đó là con tim tìm kiếm: Đó là một con tim không “tư hữu hóa” thời gian và không gian – khốn cho những mục tử nào tư hữu hóa sứ mạng của mình! -, không bận tâm tới sự nghỉ ngơi đáng được hưởng của mình, cũng không bao giờ đòi hỏi người khác đừng quấy rầy mình. Người mục tử theo con tim của Thiên Chúa không bảo vệ những tiện nghi riêng, không bận tâm tới chuyện bảo vệ danh thơm tiếng tốt của mình – người ta có thể âm thầm vu khống cho Ngài, như người ta đã từng vu khống cho Chúa Giêsu! -, vâng, không hề có bất cứ sự hãi sợ nào trước những lời chỉ trích, nhưng sẵn sàng đối diện với những rủi ro, chỉ cốt sao nên giống Chúa của mình. “Phúc thay khi anh em bị bách hại!” v.v…
Vị mục tử thích hợp với Chúa Giêsu là vị mục tử thủ đắc một con tim tự do để thoát ra khỏi những điều riêng tư. Con tim ấy không sống bằng cách “báo cáo kết toán” những tài sản riêng và những giờ phục vụ của mình: Con tim ấy không phải là kế toán viên tinh thần, nhưng là một người Samaria nhân hậu trên đường đi tìm những người nghèo túng. Ông là một mục tử, chứ không phải là trưởng ban thanh tra của đoàn chiên, và dấn thân cho sứ mạng không chỉ 50 hay 60%, nhưng với toàn cuộc hiện sinh của mình. Nếu Ngài ra đi để tìm kiếm, thì Ngài sẽ thấy và sẽ thấy, vì Ngài liều mạng. Nếu vị mục tử không hề dám liều mạng thì Ngài cũng sẽ chẳng tìm thấy bất cứ điều chi… Ngài không dừng lại sau những thất vọng, và không ngừng nỗ lực. Trong thực tế, Ngài vẫn đang kiên định trong sự tốt lành, được xức dầu bởi sự kiên định của Thiên Chúa đến độ không ai sẽ bị hư mất. Vì thế, Ngài không chỉ giữ cho những cánh cửa được luôn rộng mở, nhưng còn đi ra để tìm kiếm những con chiên không muốn bước qua cửa nữa. Như bất cứ người Kitô hữu tốt lành nào, và với tư cách là mẫu gương cho tất cả các Kitô hữu, Ngài sẽ thường xuyên đi ra khỏi chính mình. Điểm nhấn nơi con tim của Ngài hiện hữu ở bên ngoài con người của Ngài: nó sẽ bị ly tâm, và chỉ quy hướng về Chúa Giêsu – không bị bám vào cái TÔI của mình, nhưng bởi Thiên Chúa và bởi con người.
Điều thứ hai là sự bao hàm. Chúa Kitô yêu thương và biết rõ chiên của Ngài, Ngài trao hiến mạng sống của Ngài cho chúng, và không có con nào xa lạ đối với Ngài (xc. Ga 10,11-14). Đàn chiên của Ngài chính là gia đình và là sự sống của Ngài. Ngài không phải là thủ trưởng bị gây sợ hãi bởi đàn chiên, nhưng là mục tử, Đấng đồng hành với chiên, và gọi tên từng con một (xc. Ga 10,3-4). Và Ngài muốn quy tụ những con chiên khác mà chúng chưa sống bên cạnh Ngài (xc. Ga 10,16).
Người Linh mục của Chúa Kitô cũng phải như thế: Ngài được xức dầu để đưa ra quyết định cho dân chúng chứ không phải tự đưa ra những quyết định cho những kế hoạch riêng của mình, và để đến gần những con người cụ thể mà Thiên Chúa, qua Giáo hội, đã ủy thác cho Ngài. Đừng ai bị loại ra khỏi con tim của Ngài; đừng ai bị loại ra khỏi lời cầu nguyện và khỏi nụ cười của Ngài. Với cái nhìn đầy tình mến và với một con tim phụ tử, Ngài hãy đón nhận và hãy ôm tất cả vào lòng; và nếu Ngài phải khuyên dạy, thì Ngài phải luôn luôn thực hiện điều ấy trong sự gần gũi. Ngài đừng khinh thường bất cứ ai, nhưng hãy sẵn sàng làm cho đôi tay của mình bị bám bẩn vì tất cả. Người mục tử tốt lành không đeo găng tay! Với tư cách là người phục vụ bàn thánh mà Ngài cử hành và sống, Ngài không mong chờ lời chào hỏi và những lời khen ngợi của những người khác, nhưng giơ cánh tay ra với tư cách là người đầu tiên, và dẹp bỏ những chuyện vớ vẩn, những điều tiên kiến và những độc tố. Ngài lắng nghe những vấn đề với sự kiên nhẫn, và đồng hành với những bước đi của con người, bằng cách là Ngài phân phát ơn tha thứ của Thiên Chúa với sự cảm thông to lớn. Ngài không quát mắng những người đã rời bỏ con đường cũng như đã lạc đường, nhưng luôn luôn sẵn sàng để tái hội nhập và dàn xếp những bất hòa. Ngài là một con người biết ôm ghì những người khác vào lòng.
Cuối cùng là sự vui mừng. Thiên Chúa “tràn đầy niềm vui” (Lc 15,5): Niềm vui của Ngài có nền tảng của nó trong sự tha thứ; trong sự sống tái sinh; trong người con đã tái hít thở bầu khí của nhà Cha. Niềm vui của Chúa Giêsu, của vị Mục Tử Tốt Lành, không phải là niềm vui về chính mình, nhưng là niềm vui về người khác và với người khác, đó là niềm vui thực sự của Tình Yêu. Đó cũng là niềm vui của Linh mục. Ngài được biến đổi nhờ vào Lòng Xót Thương mà Ngài chứng tỏ một cách tự do. Đó là sự tự do đền đáp! Trong cầu nguyện, Ngài khám phá ra niềm an ủi của Thiên Chúa, và có được kinh nghiệm rằng, không gì mạnh mẽ cho bằng Tình Yêu của Thiên Chúa. Vì thế, Ngài thanh thản trong lòng, và hạnh phúc với việc trở thành mương máng của Lòng Thương Xót cũng như hạnh phúc với việc mang con người tới gần với con tim của Thiên Chúa. Sự buồn rầu sẽ là chuyện bình thường đối với Ngài, nhưng chỉ trong chốc lát; tuy nhiên, sự gắt gỏng chua chát sẽ là điều xa lạ đối với Ngài, vì Ngài là một mục tử theo con tim dịu hiền của Thiên Chúa.
Anh em Linh mục thân mến, trong khi cử hành Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày, chúng ta sẽ tái thấy căn tính mục tử của chúng ta. Mỗi lần như thế chúng ta đều có thể thực sự biến những lời của Ngài: “này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”, thành lời của chúng ta. Đó là ý nghĩa của cuộc sống chúng ta, đó là những lời mà với chúng, trong một cách thế nào đó, chúng ta có thể canh tân lời hứa tận hiến của chúng ta mỗi ngày. Cha xin cám ơn anh em vì lời thưa “XIN VÂNG” của anh em, và vì rất nhiều những lời “XIN VÂNG” thầm kín mỗi ngày mà chỉ có Chúa mới biết, và xin cám ơn về sự sẵn sàng của anh em trước việc trao hiến cuộc sống trong sự hiệp nhất với Chúa Giêsu: Nguồn cội tinh tuyền của niềm vui chúng ta nằm ở đó.
Nguồn: daminhtamhiep.net
Đức Bênêđictô XVI, Bài giảng Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm C (11/6/2010) - Linh mục và Thánh Tâm Chúa Giêsu
(Bài giảng Thánh lễ bế mạc Năm thánh Linh mục năm 2010)
Anh em linh mục thân mến,
Anh chị em thân mến,
Đã sắp kết thúc Năm thánh Linh mục mà chúng ta đã cử hành nhân dịp kỷ niệm 150 năm ngày qua đời của Thánh Gioan Vianney – Cha sở họ Ars, mẫu gương của thừa tác vụ linh mục trong thế giới hôm nay. Trong suốt năm qua, chúng ta đã để thánh nhân dẫn dắt, giúp chúng ta tái khám phá một cách sâu xa hơn vẻ cao cả và nét đẹp huy hoàng của thừa tác vụ linh mục. Linh mục không chỉ là người đảm nhiệm một chức vụ, như vẫn thấy trong các cơ cấu xã hội vốn cần thiết để vận hành. Trái lại, linh mục thực hiện điều mà không một con người nào có thể tự mình làm được, đó là nhân danh Chúa Kitô, linh mục công bố lời xá giải các tội của nhân loại chúng ta, và nhờ đó, khởi đi từ Thiên Chúa, linh mục biến đổi toàn bộ đời sống nhân loại chúng ta. Trên lễ vật bánh và rượu, linh mục đọc những lời tạ ơn của Đức Kitô – lời mang quyền năng biến đổi bản thể – những lời làm cho chính Đức Kitô, Đấng Phục Sinh, chính Thân Mình và Máu Người hiện diện; lời ấy biến đổi các yếu tố trần thế, làm cho thế giới được mở ra đón nhận Thiên Chúa và kết hợp thế giới với Ngài. Như thế, chức linh mục không đơn thuần là một “chức vụ”, mà là một bí tích: Thiên Chúa dùng đến chúng ta – những con người mọn hèn – để qua chúng ta, Ngài hiện diện giữa con người và Ngài hành động vì phần rỗi của họ. Sự “liều lĩnh” của Thiên Chúa, Đấng tự phó thác chính Ngài cho con người – Đấng, dù thấu rõ sự yếu đuối của chúng ta, vẫn xem con người là những người có khả năng hành động và hiện diện thay cho Ngài – chính sự liều lĩnh này là vẻ cao cả đích thực ẩn giấu nơi từ “chức linh mục”. Việc Thiên Chúa tin tưởng chúng ta có thể đảm nhận điều ấy; việc Ngài kêu gọi con người cộng tác vào sứ vụ của Ngài và và do đó từ bên trong Ngài ràng buộc Ngài với họ – đó là điều mà chúng ta đã chiêm niệm và một lần nữa đề cao trong suốt năm qua. Chúng ta muốn đánh thức lại niềm vui vì sự gần gũi của Thiên Chúa, và lòng tri ân vì Ngài phó thác chính Ngài nơi sự yếu đuối của chúng ta; vì Ngài hằng hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta mỗi ngày. Qua đó, chúng ta cũng muốn một lần nữa làm chứng cho các bạn trẻ thấy rằng: Ơn gọi này, mối tương quan phục vụ cho Thiên Chúa và với Thiên Chúa này, thật sự tồn tại – và chính Thiên Chúa vẫn đang chờ đợi lời thưa “vâng” của chúng ta.
Cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cũng muốn một lần nữa minh định rằng: chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa ban thêm những ơn gọi ấy. Chúng ta phải tha thiết nài xin Thiên Chúa sai những thợ gặt đến cánh đồng của Ngài; và chính lời khẩn cầu này, đồng thời, lại là cách thức Thiên Chúa gõ cửa trái tim của các bạn trẻ – những người cảm thấy mình có khả năng thực hiện điều mà Thiên Chúa biết họ có thể đảm đương. Thật không ngạc nhiên khi ánh sáng mới toả ra từ chức linh mục thì không làm vừa lòng “kẻ thù”; hắn muốn ánh sáng ấy tắt ngúm, để rồi Thiên Chúa bị loại trừ khỏi thế giới. Và quả vậy, chính trong năm tràn đầy niềm vui này đối với Bí tích Truyền chức thánh, tội lỗi của một số linh mục đã bị đưa ra ánh sáng – đặc biệt là những hành vi lạm dụng đối với trẻ vị thành niên, nơi đó, chức linh mục – lẽ ra phải là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa quan tâm đến sự thiện hảo của con người – lại trở nên hoàn toàn trái ngược. Chúng ta cũng khẩn thiết cầu xin sự tha thứ từ Thiên Chúa và từ các nạn nhân, đồng thời long trọng cam kết thực hiện mọi biện pháp cần thiết để những hành vi ấy không bao giờ được phép tái diễn. Trong việc đón nhận các ứng sinh vào thừa tác vụ linh mục và trong suốt tiến trình đào tạo, chúng ta sẽ làm hết sức để phân định tính xác thực của ơn gọi, cũng như đồng hành với các linh mục trên hành trình của họ, để Chúa bảo vệ và nâng đỡ họ trong những hoàn cảnh gian nan và giữa muôn vàn hiểm nguy của cuộc sống.
Nếu năm Linh mục chỉ là sự tôn vinh khả năng cá nhân của con người, thì tất cả những biến cố vừa qua hẳn đã làm cho năm ấy trở nên vô nghĩa. Thế nhưng, đối với chúng ta, điều xảy đến lại hoàn toàn ngược lại: chúng ta đã thăng tiến một tâm tình biết ơn sâu xa đối với hồng ân của Thiên Chúa – một hồng ân được chứa đựng trong “những bình sành dễ vỡ” (x. 2 Cr 4,7), và luôn luôn, ngay cả giữa sự yếu đuối của con người, vẫn làm cho tình yêu của Thiên Chúa trở nên hiện diện cách cụ thể trong thế gian này. Vì thế, chúng ta hãy đón nhận tất cả những gì đã xảy ra như một lời mời gọi thanh luyện; như một sứ mạng mà chúng ta mang theo hướng về tương lai, và nhờ đó, chúng ta biết nhận ra và thêm lòng yêu mến hồng ân cao cả mà mình đã lãnh nhận từ Thiên Chúa. Như thế, hồng ân ấy trở nên một đòi hỏi: mời gọi chúng ta đáp lại sự can đảm và khiêm hạ của Thiên Chúa bằng chính lòng can đảm và khiêm hạ của chúng ta. Vào chính giờ phút này, Lời Chúa mà chúng ta đã hát lên trong câu dẫn vào Thánh lễ của phụng vụ hôm nay có thể nói với chúng ta về ý nghĩa của việc trở thành và sống tư cách linh mục: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học cùng tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11,29).
Hôm nay, chúng ta cử hành lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu. Và trong phụng vụ, chúng ta được chiêm ngắm Trái tim Chúa Giêsu, Trái tim đã bị đâm thâu bởi ngọn giáo của người lính Rôma khi Người đã chết. Thật vậy, Trái tim Chúa Giêsu đã được mở ra vì chúng ta và trước mặt chúng ta – và như thế, chính Trái tim Thiên Chúa đã được tỏ lộ. Phụng vụ giải thích cho chúng ta ngôn ngữ của Trái tim Chúa Giêsu; và Trái tim ấy nói với chúng ta, trước hết và trên hết, rằng Thiên Chúa là mục tử của nhân loại. Điều ấy cũng mặc khải cho chúng ta thấy cội rễ chức linh mục của Chúa Giêsu, được in khắc tận sâu thẳm trong Trái tim Người; đồng thời, điều ấy cũng bày tỏ nền tảng vững chắc và là tiêu chuẩn sống động cho mọi thừa tác vụ linh mục – một thừa tác vụ luôn phải bén rễ nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu và phải được thực thi khởi đi từ chính Thánh Tâm ấy.
Hôm nay, tôi muốn đặc biệt suy niệm về những bản văn phụng vụ mà Hội thánh cất lên như lời đáp lại đối với Lời Chúa được công bố trong các bài đọc. Trong những bài thánh ca ấy, “lời” (Wort) và “đáp lời” (Antwort) thấm nhập và hòa quyện vào nhau. Một mặt, các bài ca này được rút từ chính Lời Chúa; nhưng mặt khác, chúng đồng thời cũng là lời đáp trả của con người, trong đó Lời được tiếp nhận, cất lên và đi vào cuộc sống. Bản văn trung tâm trong phụng vụ hôm nay là Thánh vịnh 23 (22): “Chúa là mục tử chăn dắt tôi” – nơi đó, dân Ítraen cầu nguyện để đón nhận mặc khải về Thiên Chúa như là vị Mục tử, và lấy đó làm kim chỉ nam cho đời sống của mình. “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi” – câu mở đầu này diễn tả niềm vui và lòng tri ân vì sự hiện diện ân cần của Thiên Chúa đối với chúng ta. Bài đọc trích sách Êdêkien cũng mở đầu với chủ đề ấy: “Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm” (Ed 34,11). Chính Thiên Chúa chăm sóc tôi, chăm sóc chúng ta, chăm sóc toàn thể nhân loại. Tôi không bị bỏ rơi, không trôi dạt giữa vũ trụ và trong một xã hội ngày càng khiến tôi trở nên lạc lõng và hoang mang. Thiên Chúa chăm sóc tôi. Ngài không phải là một vị thần xa lạ, một vị thần mà cuộc sống của tôi chẳng là gì cả đối với vị thần ấy. Các tôn giáo trên thế giới, trong mức độ hiểu biết của chúng ta, từ ngàn xưa vẫn luôn thừa nhận rằng suy cho cùng chỉ có một Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa ấy vẫn là một Đấng xa vời. Dường như Ngài đã phó mặc thế giới này cho những quyền lực và thần linh khác. Chính với những thế lực thần linh ấy mà con người phải đối mặt. Vị thần duy nhất kia có thể là Đấng tốt lành, nhưng lại cách biệt, không nguy hiểm, và cũng không mấy hữu ích. Vì thế, người ta cảm thấy không cần phải bận tâm đến vị Thiên Chúa ấy. Người không áp đặt uy quyền trên họ. Điều lạ lùng là lối suy nghĩ này lại xuất hiện trở lại trong thời đại Khai sáng. Khi ấy, người ta vẫn còn nhìn nhận rằng thế giới cần phải có một Đấng Tạo Hóa. Thế nhưng, vị Thiên Chúa này – sau khi sáng tạo vũ trụ – dường như đã rút lui khỏi thế giới. Vũ trụ được điều hành bởi một hệ thống quy luật riêng, và Thiên Chúa không – và không thể – can thiệp vào đó. Thiên Chúa trở thành một nguyên nhân xa vời. Nhiều người có lẽ thậm chí không mong Thiên Chúa quan tâm đến họ. Họ không muốn Ngài “can dự” vào cuộc đời mình. Nhưng ở bất cứ nơi đâu mà tình yêu chăm sóc của Thiên Chúa bị xem là một điều gây trở ngại, thì con người sẽ lạc hướng. Thật là một điều an ủi và dịu ngọt khi biết rằng có Đấng yêu thương và chăm sóc tôi. Nhưng còn quan trọng hơn nữa: có một Thiên Chúa biết tôi, yêu tôi và quan tâm đến tôi. Trong lời Tung hô Tin mừng, Hội thánh lặp lại chính Lời của Chúa: “Ta biết các chiên Ta và các chiên Ta biết Ta” (Ga 10,14). Thiên Chúa biết tôi, Ngài lưu tâm đến tôi. Tư tưởng này phải trở nên niềm vui đích thực cho chúng ta. Hãy để cho niềm xác tín ấy thấm sâu vào tận cõi lòng chúng ta. Và từ đó, chúng ta cũng nhận ra điều hệ trọng này: Thiên Chúa muốn chúng ta – trong tư cách linh mục – trong một khoảnh khắc rất nhỏ bé của lịch sử, được hiệp thông với chính nỗi ưu tư mục tử của Ngài dành cho con người. Là linh mục, chúng ta được mời gọi trở thành những người mang trong mình nỗi thao thức của Thiên Chúa dành cho mỗi con người nam nữ – thành những người chăm sóc họ và giúp họ cảm nghiệm cách cụ thể sự quan tâm yêu thương của Thiên Chúa. Dù lĩnh vực hoạt động được trao phó là gì, linh mục, cùng với Chúa, có thể nói: “Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi”. Trong ngôn ngữ của Kinh thánh, “biết” không chỉ mang nghĩa hiểu biết bên ngoài, như biết một số điện thoại. “Biết” nghĩa là nên một trong tương quan nội tâm, là bước vào sự gần gũi thẳm sâu với người khác – nghĩa là yêu thương họ. Chúng ta phải nỗ lực để “biết” mỗi con người nam nữ như Thiên Chúa biết họ, và vì Ngài mà yêu họ; chúng ta phải tìm cách đồng hành với họ trên hành trình của tình bạn với Thiên Chúa.
Chúng ta hãy trở lại với Thánh vịnh. Trong đó, chúng ta đọc thấy: “Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23[22],3 tt.). Người Mục tử chỉ cho đoàn chiên của mình con đường ngay chính. Người đi phía trước và dẫn dắt chúng. Nói cách khác, Chúa chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn để trở nên con người thật sự. Người dạy chúng ta nghệ thuật sống làm người. Tôi phải sống thế nào để khỏi vấp ngã, khỏi hoang phí cuộc đời trong vô nghĩa? Đây chính là câu hỏi mà mọi người nam nữ đều phải đặt ra – và là câu hỏi luôn luôn còn đó trong suốt cuộc đời. Biết bao bóng tối bao phủ quanh câu hỏi này trong thời đại chúng ta! Chúng ta liên tục nhớ đến lời Chúa Giêsu, Đấng chạnh lòng thương đoàn lũ đông đảo, bởi vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Lạy Chúa, xin thương xót chúng con nữa! Xin chỉ đường cho chúng con! Từ Tin mừng, chúng ta biết điều cốt yếu này: chính Người là con đường. Sống với Đức Kitô, bước theo Người – đó là tìm thấy con đường đúng, để đời sống chúng ta có ý nghĩa, và để đến một ngày, ta có thể nói: “Vâng, sống như thế là đáng sống.” Dân Ítraen mãi mãi tạ ơn Thiên Chúa, bởi vì trong các điều răn, Ngài đã chỉ cho họ con đường dẫn đến sự sống. Thánh vịnh vĩ đại 119 (118) là một lời ca độc đáo chất chứa niềm vui vì sự kiện ấy: chúng ta không còn mò mẫm trong bóng tối. Thiên Chúa đã chỉ cho chúng ta con đường và cách thế bước đi cho ngay thẳng. Sứ điệp của các giới răn đã được cô đọng lại trong đời sống của Chúa Giêsu và trở thành mẫu gương sống động. Nhờ đó, chúng ta hiểu rằng các quy luật từ nơi Thiên Chúa không phải là xiềng xích, nhưng là chính con đường mà Ngài chỉ cho chúng ta. Chúng ta có thể vui mừng vì những giới răn ấy, và hân hoan vì nơi Đức Kitô, các giới răn ấy hiện diện như một hiện thực sống động. Chính Người đã làm cho lòng chúng ta vui mừng. Khi bước đi với Đức Kitô, chúng ta cảm nghiệm được niềm vui của Mặc khải. Và là linh mục, chúng ta cần thông truyền cho người khác chính niềm vui của chúng ta – vì chúng ta đã được chỉ cho thấy con đường đúng để sống.
Tiếp theo là câu nói về “lũng âm u” (thung lũng tối) mà Chúa dẫn chúng ta đi qua. Con đường đời mỗi người rồi sẽ dẫn đến thung lũng của bóng tối sự chết, nơi mà không ai có thể đồng hành với ta. Nhưng chính Người sẽ hiện diện ở đó. Chính Đức Kitô đã đi xuống đêm đen của cái chết. Ngay cả ở nơi ấy, Người cũng không bỏ rơi ta. Ngay cả ở nơi ấy, Người vẫn dẫn dắt ta. Thánh vịnh 139 (138) nói: “Giả như con nằm dưới âm ty, vẫn gặp thấy Ngài.” Thật vậy, ngay cả trong cơn hấp hối của cái chết, Chúa vẫn hiện diện. Vì thế, Thánh vịnh đáp ca hôm nay có thể cất lên lời xác tín: ngay cả trong lũng âm u, con cũng không sợ gì nguy khốn. Khi nhắc đến “lũng âm u”, ta cũng có thể liên tưởng đến những thung lũng đen tối của cám dỗ, chán nản, thử thách – những nẻo đường mà ai trong chúng ta cũng phải bước qua. Ngay cả trong những bóng tối ấy của cuộc đời, Chúa cũng hiện diện. Lạy Chúa, trong bóng tối của cám dỗ, vào giờ chạng vạng khi mọi ánh sáng dường như tắt lịm, xin cho con nhận ra rằng Chúa đang ở đó. Xin trợ giúp chúng con, các linh mục của Chúa, để chúng con có thể ở lại bên cạnh những người được Chúa trao phó cho chúng con trong những đêm tối của cuộc đời họ. Để chúng con có thể chỉ cho họ thấy chính ánh sáng của Chúa.
“Cây roi và cây gậy (côn trượng) của Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm”: người mục tử cần có cây roi để bảo vệ đoàn chiên khỏi dã thú đang rình rập, khỏi bọn cướp tìm mồi. Bên cạnh cây roi còn có cây gậy mục tử – cây gậy nâng đỡ và giúp vượt qua những chặng đường khó khăn. Cả hai đều là biểu tượng cho sứ vụ của Hội thánh, cho sứ vụ linh mục. Hội thánh cũng phải sử dụng “cây roi” mục tử – cây roi để bảo vệ đức tin khỏi những ai xuyên tạc, khỏi các trào lưu có thể lạc hướng đoàn chiên. Việc sử dụng cây roi này, thực chất, có thể là một việc phục vụ vì yêu thương. Ngày nay, ta thấy rằng, không thể gọi là yêu thương nếu ta dung túng những lối sống không xứng hợp với bậc sống linh mục. Cũng không thể gọi là yêu thương nếu ta để mặc cho lạc giáo lan tràn, để đức tin bị bóp méo và xói mòn – như thể đức tin chỉ là sản phẩm do con người tạo ra, chứ không còn là hồng ân từ Thiên Chúa, là viên ngọc quý mà ta không thể để bị cướp mất. Tuy vậy, cây roi cũng luôn phải được biến đổi thành cây gậy của mục tử – cây gậy giúp con người vượt qua những nẻo đường gian nan và bước theo Chúa.
Ở phần cuối của Thánh vịnh, ta đọc thấy hình ảnh bàn tiệc được dọn sẵn, dầu xức trên đầu, chén rượu chan chứa, và việc được ở lại trong nhà Chúa. Trong Thánh vịnh, điều này trước hết là lời diễn tả niềm vui tươi lễ hội khi được hiện diện trước nhan Thiên Chúa trong đền thánh, được làm khách của Ngài, được chính Ngài phục vụ, và được cư ngụ trong nhà Ngài. Còn đối với chúng ta – những người cầu nguyện Thánh vịnh này với Đức Kitô và trong thân mình Người là Hội thánh – viễn tượng hy vọng ấy còn mang một chiều sâu và chiều kích rộng lớn hơn nữa. Trong những lời ấy, ta đọc được một mặc khải tiên báo về mầu nhiệm Thánh Thể, nơi đó, chính Thiên Chúa biến ta thành khách mời của Ngài, và Ngài tự hiến chính mình như lương thực – như bánh và rượu quý – vốn là của ăn duy nhất có thể làm thỏa mãn triệt để cơn đói khát của con người. Làm sao chúng ta lại không vui mừng khi nghĩ rằng một ngày nào đó, ta sẽ được làm khách thực sự trong bàn tiệc của Thiên Chúa và cư ngụ trong chính nhà Ngài? Làm sao ta không hân hoan khi biết rằng chính Ngài đã truyền dạy: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”? Làm sao ta không hân hoan khi biết rằng Ngài đã cho phép chúng ta dọn bàn tiệc của Thiên Chúa cho nhân loại, trao ban cho họ Mình và Máu Ngài, ban tặng cho họ hồng ân quý giá là chính sự hiện diện của Ngài? Thật vậy, với tất cả tâm hồn, chúng ta có thể cùng nhau cất lời Thánh vịnh: “Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời” (Tv 23[22],6).
Sau cùng, chúng ta hãy dừng lại đôi chút nơi hai câu điệp ca hiệp lễ mà phụng vụ Hội thánh trao ban trong ngày lễ hôm nay. Trước tiên là lời kết thúc của Thánh Gioan trong trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu: “Một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra” (Ga 19,34). Trái tim Chúa Giêsu bị ngọn giáo đâm thâu. Một khi được mở ra, trái tim ấy trở nên một suối nguồn: máu và nước tuôn trào, nhắc nhớ đến hai bí tích nền tảng làm nên sự sống của Hội thánh: Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể. Từ cạnh sườn bị đâm thâu của Chúa, từ trái tim mở rộng của Người, phát xuất một nguồn suối hằng sống, vẫn tiếp tục tuôn chảy qua các thế kỷ và làm nên Hội thánh. Trái tim mở ra ấy chính là nguồn mạch của một dòng nước sự sống mới. Chắc chắn ở đây Thánh Gioan cũng muốn gợi lại lời tiên báo của ngôn sứ Êdêkien, người đã được thị kiến thấy từ ngôi đền thờ mới tuôn ra một dòng nước mang lại sự phong nhiêu và sự sống (x. Ed 47). Chính Chúa Giêsu là Đền Thờ mới, và trái tim bị đâm thâu của Người là suối nguồn của một dòng nước sự sống mới, được ban cho chúng ta trong Bí tích Rửa tội và Bí tích Thánh Thể.
Phụng vụ lễ trọng Thánh Tâm Chúa Giêsu còn cho phép sử dụng một câu điệp ca hiệp lễ khác, có nội dung tương tự. Câu này được trích từ Tin mừng theo Thánh Gioan: “Từ lòng Người, sẽ tuôn chảy những dòng nước hằng sống” (x. Ga 7,38). Trong đức tin, chúng ta được “uống” dòng nước hằng sống của Lời Thiên Chúa. Nhờ đó, người tín hữu trở nên như một mạch suối, có thể tuôn đổ nước hằng sống trên vùng đất khô cằn của lịch sử. Chúng ta thấy điều ấy nơi các thánh. Chúng ta thấy điều ấy nơi Mẹ Maria – người nữ vĩ đại của đức tin và tình yêu – người mà qua mọi thế hệ vẫn trở nên suối nguồn của đức tin, của tình yêu và sự sống. Mỗi Kitô hữu, và mỗi linh mục, cũng được mời gọi – khởi đi từ Đức Kitô – trở nên một mạch nguồn thông ban sự sống cho tha nhân. Chúng ta phải trở nên những người mang nước hằng sống đến cho một thế giới khô khát và đang cháy bỏng vì khát mong. Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa vì đã mở trái tim Chúa ra cho chúng con; vì trong cái chết và sự phục sinh của Chúa, Chúa đã trở thành nguồn mạch sự sống. Xin ban cho chúng con sự sống, cho chúng con sống sự sống được kín múc từ Chúa là nguồn sống của chúng con, và xin cho chính chúng con cũng trở thành suối nguồn sự sống – những suối nguồn có khả năng trao ban dòng nước sự sống cho thời đại chúng con. Chúng con cảm tạ Chúa vì hồng ân của chức vụ linh mục. Lạy Chúa, xin chúc lành cho chúng con, và cho tất cả những ai hôm nay vẫn còn khát khao và tiếp tục đi tìm. Amen.
Nguồn: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam - hdgmvietnam.com